
'Quốc gia lý tưởng'
So với các phần trước, về mô hình chính trị và lập luận, ở phần về giáo dục, Aristotle trở lại với những trải nghiệm về cuộc sống:
“Những ai muốn tìm hiểu mô hình chính quyền nào là tốt đẹp nhất, trước hết phải xác định một cuộc sống đáng sống nhất là một cuộc sống như thế nào. Khi ta chưa biết chắc về điều này, thì ta cũng không biết chắc được mô hình chính quyền nào là tốt đẹp nhất. Tuy nhiên, trong trật tự của thiên nhiên, ta có thể đoán được những người sống một cuộc sống tốt đẹp là những người được sống trong một chính thể tốt đẹp nhất mà hoàn cảnh cho phép. Do đó, trước hết, ta nên xác định thế nào là một cuộc sống đáng sống, và xem xét một cuộc sống như vậy có phải là một cuộc sống tốt đẹp nhất cho cả cá nhân và chế độ hay không?'
Aristotle kết luận, những người còn độc ác và tham lam thì không thể có cuộc sống hạnh phúc. Chỉ những người có đức hạnh, tức là những người có cuộc sống tinh thần cao, mới có được hạnh phúc. Vậy thì, một xã hội được gọi là tốt đẹp một cách lý tưởng là xã hội đạt tới các đức hạnh tinh thần và người dân có đầy đủ thể chất, vật chất để thực hiện những đức hạnh đó.
Hạnh phúc của cá nhân cũng phản ánh lên hạnh phúc của một quốc gia. Khi một quốc gia đặt nặng sự giàu có về vật chất tức là các cá nhân của quốc gia đó cũng đang quan niệm rằng sự giàu có mang lại hạnh phúc. Tương tự với quyền lực hay đức hạnh. Một chính phủ khôn ngoan sẽ biết cách điều phối các quan điểm về hạnh phúc để phù hợp với tất cả các cá nhân. Và quan trọng, những người nắm quyền phải là người đề cao đức hạnh chứ không phải là vật chất hay quyền lực.
Có một mâu thuẫn trong vấn đề đức hạnh, đó là tự do và đời sống chính trị. Luôn có mâu thuẫn giữa hai đời sống này, và phe nào cũng có đủ lập luận để thuyết phục rằng đời sống ấy là đáng sống nhưng Aristotle cho rằng người thật sự có tài đức siêu tuyệt là người vừa có đức hạnh vừa có khả năng hành động.
Trong phần này, Aristotle đưa ra một định nghĩa về một quốc gia lý tưởng, rất khác biệt với các tư duy chính trị thời bấy giờ. Quan niệm về một quốc gia tốt của thời bấy giờ về một quốc gia mạnh đó là phải có dân số đông và lãnh thổ rộng lớn, nhưng một quốc gia chỉ có thể phát triển tốt nhất khi nó được tận dụng tất cả các tính năng và vai trò của nó. Một nước đông dân thường dẫn khó cai trị bằng pháp luật và dễ dẫn đến bất ổn. Diện tích lãnh thổ của một quốc gia không cần qua lớn, nhưng đất đai phải đủ để cung cấp nông sản và dân sống thoải mái.
Địa thế của một quốc gia được gọi là lý tưởng khi nó đủ hiểm trở để ngăn giặc nhưng đủ thuận tiện cho dân cư đi lại, và đặc biệt là dễ quan sát. Thủ đô của một quốc gia thì cần phải ở chỗ thuận tiện giao thông cả đường bộ và đường thủy, để vừa là trung tâm quân sự vừa là trung tâm thương mại.
Aristotle rất phản đối các quan điểm biến quốc gia của mình thành điểm buôn bán của bốn phương. Giao thương buôn bán với nước ngoài quá nhiều sẽ khiến việc cai trị gặp khó khăn và các nguy cơ về quốc phòng. Đương nhiên, một nước có cảng biển sẽ thuận tiện cho phát triển và phòng thủ hơn nhiều so với một nước không có cảng. Việc trao đổi buôn bán các mặt hàng với nước ngoài cũng là điều cần thiết, nhưng không nên để các mặt hàng nước ngoài lấn lướt hàng nội địa. Ông cho rằng: “Thực ra một nước nên trở thành một thị trường để đáp ứng nhu cầu của chính mình, chứ đừng nên trở thành một thị trường cho những nước khác vào buôn bán. Những nước trở thành thị trường cho thế giới buôn bán là những nước nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nhưng một nước không nên tìm kiếm những lợi nhuận như vậy, bởi thế, một quốc gia không nên biến mình thành nơi thị tứ cho thế giới”. Thiết kế tường thành ở cảng biển phải có tính phòng thủ cao và các luật lệ phải chặt chẽ để chắn những ảnh hưởng xấu do nước ngoài mang đến.
Chất lượng dân cư cũng là yếu tố Aristotle coi trọng, mà giá trị ông đề cao chính là lòng yêu chuộng tự do và sự khôn ngoan. Ông cho rằng, người dân ở phương Bắc sống tự do nhưng thiếu khôn ngoan, còn người dân ở phương Đông khôn ngoan nhưng thiếu đi nhiệt huyết, vì thế, người Hy Lạp ở giữa, có được đặc tính ở cả hai.
Việc phân chia giai cấp được Aristotle ủng hộ. Ông cho rằng công dân thì nên được sở hữu đất đai và vũ trang để họ tự bảo vệ đất của mình. Nhưng các công dân đó thì không nên làm nghề nông. Để làm nghề nông, tốt nhất là đi bắt người chủng tộc khác thấp kém hơn, quen với đời sống nô lệ để làm nghề nông.
Cũng trong chương này, ông giới thiệu rất nhiều các mô hình về quy hoạch đô thị theo kiểu Hippodamus, quy hoạch chiến lũy, hải cảng, cách thiết kế các điểm ăn chung…v…v… Nhưng quan trọng hơn hết, để điều hành các đô thị ấy, pháp luật cần phải công chính.
Ông không cho rằng một nhà cầm quyền nên kéo dài quyền lực của mình mà nên thay đổi theo nhiệm kỳ, vì trên thực tế người cai trị đa phần cũng chẳng khá hơn người dân là mấy. Thay phiên nhau làm quan, làm dân thường… là cách thức để hệ thống vận hành trơn tru hơn, tránh tình trạng kẻ bất tài nắm quyền lâu dài.
Aristotle khác với Hippodamus, ông luôn chia sự vật và sự việc thành hai thái cực. Tinh thần con người, theo ông được chia thành lý trí và lý tình (thường chúng ta hay nhầm hai khái niệm này với nhau). Lý trí là tư duy, còn lý tình cao hơn cả lý trí bởi đó thú dẫn hướng hành động và tư duy. Đời sống con người cũng được chia làm hai loại là ”công việc và thư nhàn, hay chiến tranh và hòa bình”. Việc một ai đó lựa chọn hành động như thế nào là dựa trên sự dẫn đắc của lý tình. Người dân trong một quốc gia lý tưởng phải có khả năng chiến đấu trong chiến tranh và khả năng thư nhàn trong hòa bình, họ phải vừa là một công dân tốt và hướng tới việc là một người tốt.
Giáo dục là vấn đề hàng đầu mà Aristotle đồng ý với các nhà lập pháp khác, vì cơ cấu chính trị sẽ bị phá vỡ nếu giáo dục xuống cấp.
Aristotle ủng hộ giáo dục công lập và phản đối giáo dục tư nhân vì sự khác biệt cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng.
Âm nhạc, một trong 4 môn học ở Hy Lạp, làm sống động thể chết và tâm trí, và có giá trị hơn cả nghề nghiệp.
Âm nhạc làm hân hoan tâm hồn và dẫn đến việc hình thành đức hạnh, theo quan điểm của Aristotle.
Aristotle ủng hộ việc dậy trẻ em thực tập nghệ thuật nhưng phản đối việc tập nghệ thuật chuyên nghiệp vì nó coi trội về giá trị vui vẻ hơn là tinh thần.
Trong các chương về giáo của của Aristotle, có thể kết luận, mô hình lý tưởng của ông không chỉ tập trung vào việc truyền đạt kiến thức mà còn nhấn mạnh sự phát triển cảm nhận âm nhạc và đặc biệt là tăng cường tinh thần qua âm nhạc. Các quan điểm về giáo dục âm nhạc của ông được mô tả trong cuốn “Chính trị luận” với mức độ cao với tầm quan trọng hơn trong cuộc sống.
Nguyên Hà Thủy
