

Gấu chó | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Sắp nguy cấp (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Carnivora |
Họ (familia) | Ursidae |
Chi (genus) | Helarctos Horsfield 1825 |
Loài (species) | H. malayanus |
Danh pháp hai phần | |
Helarctos malayanus (Raffles, 1821) | |
Phạm vi phân bố (nâu – hiện tại, đen – trước đây, xám sẫm – không chắc chắn) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Chó gấu (danh pháp hai phần: Helarctos malayanus, từ đồng nghĩa: Ursus malayanus), được tìm thấy chủ yếu trong các rừng mưa nhiệt đới ở khu vực Nam Á và Đông Nam Á; bao gồm Ấn Độ, Bangladesh, Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam.
Chó gấu có chiều dài khoảng 1,2 m (4 ft), chiều cao khoảng 0,7 m -do đó chúng là loài nhỏ nhất của họ Gấu. Nó có đuôi ngắn, khoảng 3–7 cm (2 inch) và trung bình nặng không quá 65 kg (145 pao). Chó gấu đực nặng hơn một chút so với chó gấu cái.
Đặc điểm
Khác với các loài gấu khác, lông của gấu chó ngắn và mượt mà. Điều này có thể do chúng sống ở môi trường đất thấp ẩm ấm. Màu sắc của lông chúng thường là đen đậm hoặc nâu đen, chỉ trừ phần ngực có màu vàng nhạt giống hình móng ngựa hoặc hình chữ U. Màu lông tương tự có thể thấy xung quanh mõm và mắt của chúng.
Gấu chó có vuốt hình lưỡi liềm, khá nhẹ. Chân của chúng to, có lòng bàn chân không lông, có thể để hỗ trợ khi leo trèo. Chân của chúng hướng vào trong, khiến chúng đi như đi vòng kiềng. Tuy nhiên, chúng là những chuyên gia leo trèo tài ba.
Chúng có tai tròn và ngắn, mõm cũng ngắn.
Là loài động vật hoạt động vào ban đêm chủ yếu, gấu chó thường thích nghỉ ngơi hoặc tắm nắng vào ban ngày trên các cành cây lớn khoảng 2-7 mét từ mặt đất. Vì chúng thường sống trên cây nhiều, gấu chó đôi khi gây thiệt hại lớn đến các loại cây trồng. Chúng được xem là những kẻ phá hoại đặc biệt đối với dừa và ca cao trong các vùng nông thôn. Thói quen này là một trong những nguyên nhân làm giảm số lượng gấu chó trong tự nhiên, cùng với việc bị săn bắn để lấy lông và mật cho y học Trung Quốc.
Gấu chó có chế độ ăn rộng và đa dạng, bao gồm các động vật nhỏ như thằn lằn, chim hoặc các loài động vật có vú khác, cũng như trái cây, trứng, mối, ngọn non dừa, mật ong, quả mọng, chồi cây, côn trùng, rễ cây, quả ca cao và dừa. Hàm răng mạnh mẽ của chúng có thể phá vỡ quả dừa. Chúng thường dựa vào khứu giác mạnh mẽ để tìm kiếm thức ăn vì thị lực của chúng rất kém.
Gấu chó sinh sống chủ yếu ở vùng Đông Himalaya và kéo dài xuống phía nam đến Malaysia.
Chúng sinh sống từ dãy Himalaya phía đông đến Tứ Xuyên và kéo dài xuống phía nam đến Malaysia, bao gồm cả bán đảo Đông Dương.
Gấu chó sinh sản quanh năm vì chúng không ngủ đông. Mỗi lần sinh, chúng thường sinh ra hai con, mỗi con nặng khoảng 280 - 340 g.
Chu kỳ mang thai của gấu chó kéo dài khoảng 96 ngày và chúng cho con bú suốt 18 tháng. Chúng đạt tuổi trưởng thành sau khoảng 3-4 năm và có thể sống đến 28 năm trong điều kiện nuôi nhốt.
Thông tin khác về gấu chó bao gồm các sự kiện về đời sống và sinh sản của chúng.
Một loài phân loài của gấu chó (Helarctos malayanus euryspilus) chỉ được tìm thấy trên đảo Borneo.
Trong tiếng Malaysia, gấu chó được gọi là ‘basindo nan tenggil’, có nghĩa là ‘con vật thích sống trên cao’.
Ghi chú về gấu chó.
Các liên kết ngoài về gấu chó bao gồm Sun bear, Woodland Park Zoo ở Seattle, Washington, USA, Bear Den, và Wellington Zoo.
- Các nguồn thông tin bổ sung về gấu chó bao gồm các tài liệu về dấu vết động vật.
Các loài còn tồn tại của họ Gấu |
---|
Các loài động vật có tình trạng đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam |
---|