- Đây là tên của một người Triều Tiên, họ là Choi.
Choi Soo-young | ||||
---|---|---|---|---|
최수영 | ||||
Sooyoung vào năm 2024 | ||||
Sinh | Choi Soo-young 10 tháng 2, 1990 (34 tuổi) Cheongdam-dong, Gangnam-gu, Seoul, Hàn Quốc | |||
Quốc tịch | Hàn Quốc | |||
Trường lớp | Đại học Chung-Ang | |||
Nghề nghiệp |
| |||
Năm hoạt động | 2002-nay | |||
Chiều cao | 172 cm (5 ft 8 in) | |||
Cân nặng | 50 kg (110 lb) | |||
Sự nghiệp âm nhạc | ||||
Thể loại |
| |||
Nhạc cụ | Thanh nhạc | |||
Năm hoạt động | 2002 – nay | |||
Hãng đĩa |
| |||
Hợp tác với |
| |||
Tên tiếng Triều Tiên | ||||
Hangul | 최수영 | |||
Hanja | 崔秀英 | |||
Romaja quốc ngữ | Choe Su-yeong | |||
McCune–Reischauer | Ch'oe Suyŏng | |||
Hán-Việt | Thôi Tú Anh | |||
Thông tin YouTube | ||||
Kênh | ||||
Năm hoạt động | 2019-nay | |||
Thể loại | Âm nhạc, Đời sống | |||
Lượt đăng ký | 326.000 (tính đến 11/12/2020) | |||
| ||||
Choi Soo-young (Hangul: 최수영; sinh ngày 10 tháng 2 năm 1990), thường được gọi là Sooyoung, là một ca sĩ và diễn viên nổi tiếng người Hàn Quốc, đồng thời là thành viên của nhóm nhạc nữ Girls' Generation. Bên cạnh sự nghiệp âm nhạc, cô còn tham gia nhiều bộ phim truyền hình và điện ảnh. Vào tháng 10 năm 2017, Sooyoung rời khỏi SM Entertainment để tập trung vào diễn xuất nhưng vẫn giữ vai trò trong SNSD.
Ngày 7 tháng 5 năm 2019, Sooyoung gia nhập Saram Entertainment để phát triển sự nghiệp diễn xuất, rời bỏ công ty quản lý cũ.
Thông tin cá nhân
Sooyoung chào đời vào ngày 10 tháng 2 năm 1990 tại Seoul, Hàn Quốc. Cô có một chị gái là diễn viên nhạc kịch Choi Soo-jin. Sooyoung được SM Entertainment phát hiện qua cuộc thi SM Open Audition khi còn học lớp năm, nhưng đã giành giải nhất tại cuộc thi Korea-Japan Ultra Idol Duo năm 2002 và ra mắt tại Nhật Bản với tư cách là một trong hai thành viên của nhóm nhạc Route θ. Nhóm phát hành ba đĩa đơn trước khi giải thể vào năm 2003. Sau đó, Sooyoung quay lại SM Entertainment và trở thành thành viên của nhóm nhạc nữ Girls' Generation.
Vào tháng 2 năm 2009, Sooyoung tốt nghiệp từ trường Trung học nữ sinh Jungshin. Đến tháng 5 năm 2014, cô và Yuri, một thành viên khác của Girls' Generation, được chỉ định làm đại sứ cho trường Đại học Chung-Ang khi cả hai đang theo học ngành sân khấu và điện ảnh tại đây. Họ đã tốt nghiệp cùng nhau vào tháng 2 năm 2016.
Career
Âm nhạc
Năm 2005, Sooyoung thể hiện ca khúc 'I Am' cho phiên bản tiếng Hàn của bộ phim hoạt hình Nhật Bản Inuyasha. Đến năm 2007, cô chính thức ra mắt tại Hàn Quốc với vai trò thành viên nhóm nhạc nữ Girls' Generation. Vào năm 2008, Sooyoung và thành viên Yuri cùng nhóm đã thể hiện bài hát nhạc trot 'Kkok' cho bộ phim truyền hình Working Mom phát sóng trên đài SBS. Năm 2009, cô tham gia vào bài hát 'Feeling Only You' của nhóm nhạc nam The Blue cùng với Tiffany. Đến năm 2014, Sooyoung phát hành ca khúc 'Wind Flower', nhạc phim của bộ phim truyền hình My Spring Days mà cô đảm nhận vai chính.
Năm 2011, Sooyoung đảm nhận việc viết lời cho bài hát 'How Great Is Your Love' trong album phòng thu thứ ba The Boys của Girls' Generation. Đến năm 2013, cô cùng các thành viên Yuri và Seohyun viết lời cho bài hát 'Baby Maybe' nằm trong album phòng thu thứ tư I Got a Boy. Vào năm 2016, Sooyoung viết lời cho phiên bản tiếng Hàn của bài hát 'What Do I Do' trong mini-album đầu tay I Just Wanna Dance của Tiffany, và cũng viết lời cho bài hát 'Sailing (0805)' của Girls' Generation nhân dịp kỉ niệm 9 năm ngày ra mắt của nhóm.
Ngày 9 tháng 10 năm 2017, Sooyoung quyết định không gia hạn hợp đồng với SM Entertainment, mặc dù cô vẫn là thành viên của Girls' Generation.
Vào tháng 11 năm 2017, Sooyoung gia nhập Echo Global Group sau khi hợp đồng với SM Entertainment kết thúc. Với việc chuyển sang nhãn hiệu mới, các kế hoạch tương lai của cô với Girls' Generation vẫn đang được thảo luận.
Vào tháng 12 năm 2018, Sooyoung đã phát hành đĩa đơn solo mang tên 'Winter Breath', đánh dấu sự trở lại của cô sau khi rời SM Entertainment. Video âm nhạc của bài hát được phát trực tuyến ngay trong ngày ra mắt. Để kỷ niệm sự kiện này, Sooyoung cũng đã ra mắt các tài khoản Twitter và YouTube chính thức của mình.
Vào tháng 5 năm 2019, Sooyoung đã ký hợp đồng với công ty mới Saram Entertainment.
Diễn xuất
Năm 2007, Sooyoung và đồng đội Yuri đảm nhận các vai phụ trong bộ phim truyền hình Unstoppable Marriage. Tiếp theo, vào năm 2008, cô tham gia vào bộ phim hài lãng mạn Hello, Schoolgirl cùng với Lee Yeon-hee và Kangin, đồng thời xuất hiện trong bộ phim truyền hình Oh! My Lady bên cạnh các thành viên nhóm Jessica và Hyoyeon. Năm 2011, cô góp mặt với vai khách mời trong Paradise Ranch, một bộ phim truyền hình của SBS do Changmin và Lee Yeon-hee đóng vai chính.
Vào tháng 3 năm 2012, Sooyoung đảm nhận vai Eujin trong bộ phim truyền hình The 3rd Hospital, cùng với các diễn viên Kim Seung-woo, Oh Ji-ho, Kim Min-jung. Vai diễn của cô nhận được nhiều lời khen từ khán giả và giới phê bình. Cô cũng xuất hiện trong vai khách mời trong bộ phim truyền hình A Gentleman's Dignity của đài SBS.
Năm 2013, Sooyoung vào vai nữ chính Gong Min-young trong bộ phim truyền hình Dating Agency: Cyrano trên kênh tvN, cùng với Lee Jong-hyuk. Kịch bản của bộ phim dựa trên truyện tranh Cyrano Agency và là phần tiếp theo của bộ phim điện ảnh cùng tên. Quá trình quay phim bắt đầu giữa tháng 4 và phim được phát sóng từ cuối tháng 5.
Năm 2014, Sooyoung đóng vai chính Lee Bom trong bộ phim truyền hình My Spring Days của đài MBC, cùng với Kam Woo-sung. Nhân vật của cô là một cô gái từng mắc bệnh nặng và được cấy ghép tim, tình cờ gặp chồng và hai con của người phụ nữ đã hiến tạng cho cô sau khi qua đời trong một vụ tai nạn. Với vai diễn này, Sooyoung đã giành giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong phim truyền hình ngắn tại MBC Drama Awards 2014 và giải Nữ diễn viên chính xuất sắc tại Korean Drama Awards 2015.
Năm 2015, Sooyoung vào vai nữ chính Jung ah-yeon, một cô gái bị mù, trong bộ phim truyền hình đặc biệt Perfect Sense được phát sóng trên kênh KBS2 vào năm 2016. Cũng trong năm 2016, cô đóng vai nữ chính bên cạnh Seo In-guk trong bộ phim truyền hình Đội đặc nhiệm số 38. Sooyoung đã được xác nhận sẽ đóng vai nữ chính trong bộ phim truyền hình Polyclinic Doctor.
Năm 2018, Sooyoung tham gia vào bộ phim hợp tác Hàn-Nhật Memories of a Dead End, bộ phim hài hành động Girl Cops, và loạt phim truyền hình hài lãng mạn So I Married a Anti-fan, dựa trên manhwa cùng tên, cùng với Choi Tae-joon.
Dẫn chương trình
Trước khi ra mắt cùng Girls' Generation, Sooyoung đã là VJ cho chương trình Hello Chat của Mnet cùng với Kangin từ nhóm Super Junior. Từ tháng 7 năm 2007 đến tháng 1 năm 2008, cô dẫn chương trình cho Chunbangjichuk Radio cùng với Sungmin, một thành viên khác của Super Junior. Từ tháng 5 đến tháng 11 năm 2009, Sooyoung dẫn chương trình cho Fantastic Duo, một chương trình trẻ em của đài MBC, cùng với Oh Sang-jin và Kim Je-dong. Ngày 20 tháng 8 năm 2011, Sooyoung cùng các thành viên Tiffany và Yuri dẫn chương trình cho sự kiện K-Pop All Star Live tại Niigata, Nhật Bản. Tháng 5 năm 2012, Sooyoung và Yoon Do-hyun trở thành người dẫn chương trình mới cho TV Entertainment Tonight của đài SBS. Năm 2013, Sooyoung dẫn chương trình cho liên hoan phim quốc tế Puchon lần thứ 17 và lễ trao giải SBS Entertainment Awards. Năm 2014, cô dẫn chương trình cho đêm chung kết cuộc thi Hoa hậu Hàn Quốc cùng với Oh Sang-jin.
Đời tư
Vào ngày 28 tháng 8 năm 2011, khi đang trên đường đến một sự kiện từ thiện, Sooyoung và chị gái của cô đã gặp phải một vụ tai nạn giao thông do một người điều khiển xe máy gây ra. Vụ va chạm khiến cô bị gãy xương cụt và phải nhập viện, không thể tham gia các buổi biểu diễn của SM Town tại Tokyo cũng như của Girls' Generation tại Đài Loan. Cô đã trở lại hoạt động cùng nhóm vào ngày 26 tháng 11 năm 2011.
Ngày 3 tháng 1 năm 2014, Sooyoung và nam diễn viên Jung Kyung-ho công nhận đang hẹn hò. Cặp đôi đã bắt đầu mối quan hệ yêu đương từ tháng 9 năm 2012.
Danh sách đĩa nhạc
Route θ
Năm | Tên bài hát | Album |
---|---|---|
2002 | "Start" | Start |
"Kimi Ni Ae Ta Kara..." | ||
"Waku Waku It's Love" | Waku Waku It's Love | |
"Go Go Happy" | ||
2003 | "Painting" | Painting |
"Onna No Ko Magic" |
Bài hát
Năm | Tên bài hát | Album |
---|---|---|
2005 | "I Am" | — |
2008 | "Kkok" (với Yuri) |
Working Mom OST |
2009 | "Feeling Only You" (The Blue hợp tác với Tiffany và Sooyoung) |
The First Memories |
2014 | "Wind Flower" | My Spring Days OST |
2022 | "To My Star" | If you wish upon me OST |
Danh sách các bộ phim
Phim chiếu rạp
Năm | Tên phim | Vai | Ghi chú |
---|---|---|---|
2008 | Hello, Schoolgirl | Jeong Da-jeong | Vai phụ |
2012 | I AM. | Chính mình | Phim tài liệu về SM Town |
2015 | SMTown The Stage | Chính mình | Phim tài liệu về SM Town |
2019 | Memories Of A Dead End | Yumi | Phim điện ảnh hợp tác Hàn-Nhật |
Miss And Mrs. Cops | Jangmi | Vai phụ | |
2020 | New Year Blues | Oh Wol | Vai phụ |
Phim truyền hình
Năm | Tên phim | Kênh | Vai | Ghi chú |
---|---|---|---|---|
2008 | Unstoppable Marriage | KBS | Choi Soo-young | Vai phụ |
2010 | Oh! My Lady | SBS | Chính mình | Khách mời; tập 7 |
2011 | Paradise Ranch | SBS | Cô Soo | Khách mời; tập 3 |
2012 | A Gentleman's Dignity | SBS | Chính mình | Khách mời; tập 5 |
The 3rd Hospital | tvN | Lee Eui-jin | Vai chính | |
2013 | Dating Agency: Cyrano | tvN | Gong Min-young | Vai chính |
2014 | My Spring Days | MBC | Lee Bom-yi | Vai chính |
2016 | Perfect Sense | KBS | Jung Ah-yeon | Vai chính |
38 Revenue Collection Unit | OCN | Cheon Sung-hee | Vai chính | |
2017 | Man In The Kitchen | MBC | Lee Roo-ri | Vai chính |
2020 | Tell me what you saw | OCN | Cha Soo-young | Vai chính |
Run On | JTBC | Seo Dan-Ah | Thứ chính | |
2021 | So I Married an Anti-Fan | tvN | Lee Geun Young | Vai chính |
2022 | If you wish upon me | KBS (kênh truyền hình Hàn Quốc) | Seo Yeon Joo | Vai chính |
Please send me a fan letter | MBC (kênh truyền hình Hàn Quốc) | Han Kang Hee | Vai chính |
Giải thưởng và đề cử
Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Được đề cử | Kết quả |
---|---|---|---|---|
2012 | Mnet 20's Choice Awards | Best 20's Style | Chính mình | Đề cử |
KBS Music Awards | Best Female Group Member | Chính mình | Đề cử | |
2013 | Korea Drama Awards lần thứ 6 | Best New Actress | Dating Agency: Cyrano | Đề cử |
Style Icon Awards lần thứ 6 | Best K-Style Award | Chính mình | Đoạt giải | |
SBS Entertainment Awards | New Rookie Award (MC Category) | TV Entertainment Tonight | Đoạt giải | |
2014 | MBC Drama Awards | Excellence Award, Actress in a Miniseries | My Spring Days | Đoạt giải |
Best Couple Award | Đề cử | |||
2015 | Korea Drama Awards lần thứ 8 | Excellence Award, Actress | Đoạt giải | |
2022 | BIFF x Marie Claire Asia Star Award 2022 | Face of Asia award | Chính mình | Đoạt giải |
MBC Drama Awards | Excellence Award, Actress in a short daily | Please send me a fan letter | Đoạt giải |
Ghi chú
Liên kết bên ngoài
- Trang web chính thức
- Choi Soo-young trên Instagram
- Choi Soo-young trên YouTube
- Choi Soo-young trên IMDb
- Choi Soo-young trên HanCinema
Girls' Generation |
---|
Giải thưởng phim truyền hình Hàn Quốc nữ diễn viên xuất sắc |
---|