Âm trạch là vị trí linh thiêng dành cho việc an táng ông bà, cha mẹ, với mong muốn mang lại sự thành công và hạnh phúc cho con cháu sau này. Người xưa tin rằng âm trạch là căn nguyên, còn dương trạch là nhánh lớn, vì thế việc chăm sóc mộ phần rất quan trọng. Họ cho rằng việc chọn đất mai táng không khác gì việc chọn đất xây nhà.
Mọi người cũng chú ý đến hướng và thời gian xây dựng mộ (nếu người chết có tuổi, tức là trong năm đó không có những ngày kiêng kỵ về xây dựng, trong 49 ngày đầu tiên có thể xây mộ, sau đó phải chọn ngày, tháng, năm phù hợp như với người còn sống) dựa trên Tứ Kim Lâu, Lục Hoang Ốc, ngày, tháng trong Lịch Hoàng Đạo v.v…
Nơi chôn cất tốt nhất là vùng đất khô ráo. Trong tác phẩm 'Lã Giám – Tiết tang thiên' viết: 'Chôn ở nơi khô cạn thì không bị cầy hoặc cáo bới ăn xác, nhưng chôn quá sâu có thể chạm tới nước mạch. Vì vậy, việc chọn địa điểm trên đồi cao sẽ tránh được những nguy cơ từ cầy hoặc cáo và tránh được lũ lụt, giúp xác chói da mau thối rữa là không thích hợp'.
Theo tục lệ truyền thống, người xưa thường chôn người chết với hướng nhìn về phía Nam hoặc nghiêng về phía Tây.
Trên lưu vực sông Hoàng Hà, ở Bán Pha, Tây An thời kỳ văn hóa Ngưỡng Thiều, một số mộ cổ đã được phát hiện, đều hướng về phía Tây. Tại Vân Nam, trong thời kỳ Xuân Thu, hơn 200 ngôi mộ quay về phía Nam, chân hướng về Bắc. Còn tại Hà Nam, khoảng 114 mộ từ thời kỳ đồ đá cổ đại cũng hướng chếch về phía Tây – Tây Nam.
Trong thời kỳ Minh – Tống ở Trung Quốc, người ta xây quan tài dày 3 tấc để ngăn chặn xác bị thối rữa lâu hơn, và che đậy bằng ba lớp áo liệm. Khi chôn, phía dưới áo không được ướt, phía trên không được tiếp xú uế từ mặt đất.
Theo phong thủy, khi chôn mộ với hướng chếch về phía Tây hoặc Tây Nam, và không gặp mạch nước ngầm là tốt. Khi cải táng, ngoài việc tìm nơi phù hợp, gia đình cần có hiểu biết để thực hiện công việc này. Thông thường, muốn cải táng mộ ít nhất phải sau ba năm kể từ lúc chôn, khi mùi khí tử không còn ảnh hưởng đến môi trường, đồng thời cũng là tín ngưỡng của người Việt.
Trong quá khứ, ít người cải táng mộ của ông bà cha mẹ, do lo sợ bị động vào long mạch. Tuy nhiên, nhiều lý do khác nhau khiến người ta phải cải táng:
- Cha mẹ mất khi gia đình vẫn còn khó khăn về kinh tế, không đủ khả năng mua quần áo tốt, nên cần phải đợi ba năm sau để cải táng lại, tránh áo quần cũ hỏng hóc làm tổn hại đến di hài và mất phần phúc đức, sợ bị quở trách bởi tổ tiên.
- Nơi chôn có nguy cơ sụp lở do mối, kiến hoặc nước ngầm.
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia phong thủy hoặc khi mộ bị sụp lở hoặc cây trồng trên mộ tự nhiên bắt đầu héo úa.
- Theo quan niệm mê tín, nếu trong gia đình có người bị dị tật hoặc bị bệnh tâm thần, gây ra những scandal, tranh cãi liên tục, gia đình tin rằng đất chôn đang bị xáo trộn.
- Hoặc cần cải táng để cầu công danh giàu sang cho gia đình, tìm kiếm một nơi cát đất phù hợp theo chỉ dẫn của các thầy phong thủy.
- Có người thấy mộ của gia đình khác mang lại may mắn, sự thịnh vượng, tin rằng đất ở đó có vận mạch tốt, nên quyết định cải táng thân nhân gần khu vực đó để hưởng lợi.
- Cũng có những nguyên nhân khách quan khác như phải di dời nghĩa trang ra khỏi khu dân cư hoặc do quy hoạch đô thị.
Trong gia đình, khi đang thực hiện việc cải táng, nếu gặp phải những tình huống sau đây, nên suy nghĩ lại và không nên tiếp tục:
- Khi đào mộ và phát hiện rắn vàng sinh sống trong huyệt, người ta tin rằng đó là điềm báo may mắn (Long xà khí vật).
- Khi mở nắp quan tài và thấy dây tơ hồng quấn quýt, cho rằng đất kết.
- Khi đất xung quanh quan tài ấm áp, không ẩm ướt, khô ráo hoặc có ít nước đọng như màu sữa, thì được coi là điềm lành. Trong trường hợp gặp những tình huống này, việc đắp mộ lại cần phải thực hiện ngay lập tức.
Trước khi tiến hành cải táng, gia đình tổ chức lễ cáo đường tại đền thờ. Khi thực hiện cải táng, họ cần phải tổ chức thêm một lễ xin phép thổ thần để di dời hài cốt người thân đến nơi mới.
Khi thu thập hài cốt, người ta đặt xương vào một chiếc sành nhỏ và rải nước hoa lên. Sau khi hoàn thành, phải hàn nắp sành chặt chẽ để không cho ánh sáng xâm nhập.
Khi sử dụng sành nhỏ để đựng hài cốt, người ta thường mang đi chùa hoặc giữ ở nhà thờ. Nếu di dời hài cốt đến nơi cải táng khác, họ sẽ dùng một chiếc áo quan nhỏ để bọc quanh xương và tẩm hoá chặt chẽ, giống như lúc mới chết.
Người mới qua đời thường được đắp mộ theo chiều dài thân, trong khi người được cải táng thường được đắp mộ theo hình dạng tròn.
Quan tài cũ không sử dụng nữa thì cần phải vứt đi. Một số người ở vùng nông thôn thường mang về để làm chuồng cho gia súc nhằm tránh sâu chân. Những người khác có thể sử dụng mảnh gỗ từ quan tài để làm bàn cầu hoặc để chữa bệnh đau nhức bằng cách đốt chúng dưới gầm giường để giảm cơn đau.
Những vùng đất cao ráo, ít ẩm thấp thường làm cho xác người chết ít bị thối rữa hơn so với những nơi có độ ẩm cao.
(Theo Blogphongthuy)