Eriksen chơi cho Tottenham Hotspur năm 2016 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Christian Dannemann Eriksen | ||
Ngày sinh | 14 tháng 2, 1992 (32 tuổi) | ||
Nơi sinh | Middelfart, Đan Mạch | ||
Chiều cao | 1,83 m (6 ft 0 in) | ||
Vị trí | Tiền vệ tấn công | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Manchester United | ||
Số áo | 14 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1995–2005 | Middelfart G&BK | ||
2005–2008 | OB | ||
2008–2010 | Ajax | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2010–2013 | Ajax | 113 | (25) |
2013–2020 | Tottenham Hotspur | 226 | (51) |
2020–2021 | Inter Milan | 43 | (4) |
2022 | Brentford | 11 | (1) |
2022– | Manchester United | 50 | (2) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2007–2009 | U-17 Đan Mạch | 27 | (9) |
2009 | U-18 Đan Mạch | 5 | (1) |
2009 | U-19 Đan Mạch | 3 | (1) |
2011 | U-21 Đan Mạch | 3 | (1) |
2010– | Đan Mạch | 134 | (42) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 19 tháng 5 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 29 tháng 6 năm 2024 |
Christian Dannemann Eriksen (Phát âm tiếng Đan Mạch: [ˈkʰʁestjæn ˈe̝ːʁeksn̩]; sinh ngày 14 tháng 2 năm 1992) là một tiền vệ bóng đá người Đan Mạch đang thi đấu cho câu lạc bộ Manchester United tại Premier League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Đan Mạch.
Eriksen bắt đầu sự nghiệp tại Ajax, Hà Lan, nơi anh giành chức vô địch Eredivisie trong các mùa 2010–11, 2011–12 và 2012–13. Năm 2014, anh gia nhập Tottenham và được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất năm của câu lạc bộ ngay mùa đầu tiên. Trong bảy năm chơi tại Tottenham, anh cũng được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất năm của câu lạc bộ ở mùa 2016–17. Mùa giải 2018–19, Eriksen trở thành cầu thủ thứ hai sau David Beckham đạt hơn 10 pha kiến tạo trong bốn mùa giải Premier League liên tiếp và là một phần quan trọng trong đội hình vào đến trận chung kết UEFA Champions League 2019. Vào tháng 1 năm 2020, anh ký hợp đồng với Inter Milan.
Eriksen có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển quốc gia Đan Mạch vào tháng 3 năm 2010 và là cầu thủ trẻ nhất của FIFA World Cup 2010. Trong vòng loại FIFA World Cup 2018, anh đóng vai trò quan trọng giúp Đan Mạch lọt vào vòng 16 đội, nơi họ thua Croatia sau loạt sút luân lưu. Eriksen đã được vinh danh là Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất năm của Đan Mạch tổng cộng năm lần.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Middelfart và Odense
Christian Eriksen bắt đầu sự nghiệp bóng đá tại Middelfart từ khi mới ba tuổi. Vào năm 2005, anh gia nhập Odense Boldklub (OB) và thi đấu cho đội trẻ của câu lạc bộ này tại giải bóng đá trẻ Đan Mạch. OB đã bị loại ở bán kết bởi đội trẻ Brøndby IF, nhưng Eriksen vẫn được công nhận là cầu thủ kỹ thuật nhất giải đấu. Một năm sau, OB đăng quang chức vô địch giải trẻ với Eriksen ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết. Thành tích ấn tượng của anh trong màu áo U-16 OB và các đội U-17, U-19 Đan Mạch đã thu hút sự chú ý của những câu lạc bộ lớn như Chelsea và Barcelona. Eriksen đã thử việc tại Barcelona, Manchester United, Chelsea và Milan nhưng cuối cùng quyết định chọn Ajax, vì anh tin rằng chơi cho một câu lạc bộ lớn ngay từ đầu có thể là quá sức và bóng đá Hà Lan sẽ giúp anh phát triển tài năng.
Ajax Amsterdam
2008-2011
Vào ngày 17 tháng 10 năm 2008, Eriksen đã ký hợp đồng với Ajax Amsterdam trong vòng hai năm rưỡi, với mức phí chuyển nhượng 1 triệu €. Sau hơn một năm chơi cho đội trẻ, anh được đôn lên đội một vào tháng 1 năm 2010, mang số áo 51. Ngày 17 tháng 1 năm 2010, anh ra sân trận đấu chính thức đầu tiên cho AFC Ajax trong trận Eredivisie gặp NAC Breda. Ngày 25 tháng 3 năm 2010, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên cho Ajax trong chiến thắng 6–0 trước Go Ahead Eagles tại Cúp quốc gia Hà Lan. Ngày 10 tháng 4 năm 2010, anh gia hạn hợp đồng với Ajax đến mùa hè năm 2014. Ngày 6 tháng 5 năm 2010, Eriksen vào sân ở hiệp 2 trong trận chung kết Cúp quốc gia Hà Lan, giúp Ajax đánh bại Feyenoord 4-1 và giành chức vô địch với tổng tỉ số 6-1 sau hai lượt trận. Kết thúc mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên cùng Ajax, Eriksen ra sân 21 trận và ghi 1 bàn. Sang mùa giải sau, anh được trao chiếc áo số 8.
Mùa giải 2010-11 bắt đầu với Eriksen bằng bàn thắng trong chiến thắng 1-0 trên sân khách trước De Graafschap vào ngày 29 tháng 8 năm 2010. Ngày 11 tháng 11 năm 2010, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại sân Amsterdam ArenA trong trận thắng 3-0 tại Cúp quốc gia trước BV Veendam. Tháng 12, Eriksen được vinh danh là Cầu thủ trẻ Đan Mạch xuất sắc nhất năm. Ngay sau khi nhận danh hiệu, anh ghi bàn duy nhất trong trận đấu với Vitesse. Ngày 17 tháng 2 năm 2011, anh có pha lập công đầu tiên ở đấu trường châu Âu trong chiến thắng 3-0 của Ajax trước Anderlecht tại UEFA Europa League 2010–11. Ngày 13 tháng 3, anh có pha đi bóng xuất sắc và ghi bàn ấn định chiến thắng 3-1 trước Willem II.
2011-2013
Với phong độ xuất sắc trong mùa giải 2010-11 và cùng Ajax giành chức vô địch Eredivisie lần đầu tiên sau 7 năm, Eriksen được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của câu lạc bộ. Ngày 23 tháng 5 năm 2011, anh được trao danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của bóng đá Hà Lan, là người Đan Mạch thứ hai nhận danh hiệu này sau Jon Dahl Tomasson vào năm 1996. Johan Cruyff, người đứng đầu hội đồng bầu chọn, đã ca ngợi Eriksen: 'Chúng ta có thể so sánh cậu ấy với Brian và Michael Laudrup. Cậu ấy chỉ cần thêm thời gian để đạt được trình độ của những đàn anh ấy.'
Vào ngày 18 tháng 10 năm 2011, Eriksen ghi bàn đầu tiên tại UEFA Champions League khi Ajax đánh bại Dinamo Zagreb 2–0 ở vòng bảng, trở thành cầu thủ trẻ thứ hai ghi bàn tại mùa giải 2011–12. Trong trận lượt về với Dinamo Zagreb vào ngày 2 tháng 11, anh có hai pha kiến tạo cho Gregory van der Wiel và Siem de Jong, đồng thời góp công vào bàn thắng thứ ba, giúp Ajax thắng 4-0. Sau ba mùa giải liên tiếp đoạt chức vô địch Giải vô địch bóng đá Hà Lan, Eriksen quyết định không gia hạn hợp đồng với Ajax. Trong ba mùa giải tại câu lạc bộ Hà Lan, Eriksen đã thi đấu 113 trận tại Eredivisie, ghi 25 bàn và có 41 pha kiến tạo. Tại Cúp KNVB, anh có 4 bàn và 4 pha kiến tạo sau 16 trận. Trên đấu trường châu Âu, anh có 30 trận cho Ajax, ghi 3 bàn và 9 pha kiến tạo.
Tottenham Hotspur
2013–14
Ngày 30 tháng 8 năm 2013, Tottenham Hotspur thông báo đã hoàn tất việc chuyển nhượng Eriksen từ Ajax với mức phí 11,5 triệu bảng.
Vào ngày 14 tháng 9 năm 2013, Eriksen có trận ra mắt Premier League gặp Norwich. Tottenham giành chiến thắng 2-0 và anh góp mặt trong cả hai bàn thắng, bao gồm một pha kiến tạo cho Gylfi Sigurðsson. Huấn luyện viên André Villas-Boas đã khen ngợi màn trình diễn của Eriksen và cho rằng anh xứng đáng với vị trí số 10 nhờ sự sáng tạo và kỹ thuật cá nhân.
Ngày 19 tháng 9 năm 2013, Eriksen ghi bàn đầu tiên cho Tottenham bằng một cú sút xa đẹp mắt trong chiến thắng 3–0 trước Tromsø IL tại Europa League. Đến ngày 26 tháng 12 năm 2013, anh ghi bàn đầu tiên tại Premier League bằng một pha đá phạt trực tiếp ấn tượng trong trận đấu với West Bromwich Albion. Một tuần sau, trong trận đấu với Manchester United, anh đã kiến tạo cho Emmanuel Adebayor và tự mình ghi bàn nâng tỉ số lên 2-0, mang về chiến thắng 2-1 cho Tottenham.
Ngày 23 tháng 3 năm 2014, trong trận đấu với Southampton khi Tottenham bị dẫn trước 2–0 ở phút 28, Eriksen đã lập cú đúp và kiến tạo cho Gylfi Sigurðsson ghi bàn quyết định trong cuộc lội ngược dòng 3-2. Vào ngày 12 tháng 4, anh ghi bàn giúp Tottenham có được 1 điểm trước West Bromwich Albion sau khi bị dẫn trước 3-0. Kết thúc mùa giải đầu tiên với Tottenham, Eriksen ghi tổng cộng 7 bàn tại Premier League mùa 2013-14.
2014–15
Ngày 13 tháng 9 năm 2014, Eriksen ghi bàn đầu tiên trong mùa giải 2014-15 trong trận hòa 2-2 với Sunderland.
Vào ngày 28 tháng 1 năm 2015, Eriksen ghi hai bàn thắng, bao gồm một cú đá phạt trực tiếp xuất sắc, giúp Tottenham vào chung kết League Cup với tổng tỉ số 3-2 trước Sheffield United sau hai lượt trận.
2015–16
Tháng 1 năm 2016, Eriksen trở thành cầu thủ Đan Mạch đầu tiên liên tiếp ba lần nhận danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Đan Mạch.
2016–17
Ngày 26 tháng 11 năm 2016, Eriksen ghi bàn mở tỉ số bằng một cú sút xa ấn tượng trong trận đấu trên sân khách gặp đội đầu bảng Chelsea, nhưng đội của anh sau đó đã thua ngược 1-2. Một tuần sau, anh ghi hai bàn trong chiến thắng 5-1 trước Swansea City.
Ngày 27 tháng 4 năm 2017, Eriksen ghi bàn duy nhất trong trận đấu với Crystal Palace, giúp rút ngắn khoảng cách với Chelsea trong cuộc đua giành ngôi vô địch Ngoại hạng Anh xuống còn bốn điểm. Trong mùa giải 2016-17, anh có tổng cộng 15 đường chuyền thành bàn, là cầu thủ tạo cơ hội nhiều nhất châu Âu với 112 lần đặt đồng đội vào thế ghi bàn.
2017–18
Eriksen trở thành cầu thủ Đan Mạch ghi nhiều bàn thắng nhất tại Premier League với 33 bàn, vượt qua kỷ lục của Nicklas Bendtner trong chiến thắng 3–2 trước West Ham ngày 23 tháng 9 năm 2017. Ngày 14 tháng 10, bàn thắng duy nhất của anh giúp Tottenham đánh bại Bournemouth ở vòng tám Ngoại hạng Anh và đây là chiến thắng đầu tiên của Tottenham trên sân Wembley mùa này. Ngày 9 tháng 12, anh có trận đấu thứ 200 cho Tottenham và ghi bàn trong trận thắng 5-1 trước Stoke City để đánh dấu cột mốc này.
Một tháng sau, anh ghi bàn thắng thứ 50 cho Spurs chỉ sau 11 giây trong trận đấu với Manchester United, và đội của anh giành chiến thắng 2-0. Đây là bàn thắng nhanh thứ ba trong lịch sử Premier League, chỉ sau bàn thắng của Ledley King và Alan Shearer. Ngày 17 tháng 3 năm 2018, Eriksen lập cú đúp giúp Tottenham vào bán kết Cúp FA mùa thứ hai liên tiếp với chiến thắng 3-0 trước Swansea City. Ngày 1 tháng 4 năm 2018, anh ghi siêu phẩm từ cự ly gần 30 mét trong chiến thắng 3-1 trước Chelsea tại Stamford Bridge, lần đầu tiên sau 28 năm. Bàn thắng này cũng giúp anh giành giải Bàn thắng đẹp nhất tháng tại Ngoại hạng Anh. Ngày 14 tháng 4, anh ghi bàn vào lưới Manchester City trong trận thua 1-3.
Eriksen kết thúc mùa giải 2017-18 bằng việc lần đầu tiên được chọn vào Đội hình xuất sắc nhất Ngoại hạng Anh của Hiệp hội Cầu thủ Chuyên nghiệp Anh (PFA), cùng với các đồng đội Harry Kane và Jan Vertonghen.
Mùa giải 2018–19
Trong mùa giải 2018–19, Eriksen ghi bàn đầu tiên trong mùa giải tại Champions League khi đối đầu với Inter Milan trên sân khách. Trận đấu kết thúc với thất bại 2–1 của Tottenham, nhưng trong trận đấu tại sân nhà, Eriksen đã ghi bàn thắng duy nhất giúp Tottenham chiến thắng 1–0. Anh cũng ghi bàn đầu tiên tại Premier League vào ngày 15 tháng 12 năm 2018 trong trận đấu với Burnley, bàn thắng muộn màng giúp Tottenham thắng 1–0. Vào ngày 31 tháng 3, trong trận thua 2–1 trước Liverpool, anh trở thành cầu thủ thứ hai sau David Beckham có hơn 10 pha kiến tạo trong bốn mùa giải Premier League liên tiếp. Ba ngày sau, trong lần ra sân thứ 200 tại Premier League, anh kiến tạo cho Son Heung-min ghi bàn thắng đầu tiên trên sân Tottenham Hotspur mới trước khi tự mình ghi bàn trong chiến thắng 2–0 trước Crystal Palace. Ngày 23 tháng 4, anh ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 1–0 trước Brighton & Hove Albion. Sau đó, Eriksen thi đấu trong trận chung kết UEFA Champions League 2019, nhưng Tottenham thất bại 2–0 trước Liverpool.
Inter Milan
Mùa giải 2019–20
Vào ngày 28 tháng 1 năm 2020, khi hợp đồng của Eriksen với Tottenham chỉ còn sáu tháng nữa là hết hạn, anh đã ký hợp đồng 4 năm rưỡi với câu lạc bộ Serie A, Inter Milan, với mức lương 10 triệu euro mỗi mùa. Ngày hôm sau, anh có trận ra mắt câu lạc bộ, vào sân thay cho Alexis Sánchez trong chiến thắng 2-1 trước Fiorentina tại tứ kết Coppa Italia. Vào ngày 20 tháng 2, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên cho Inter, mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Ludogorets Razgrad tại Europa League. Anh cũng có bàn thắng đầu tiên tại Serie A vào ngày 1 tháng 7, trong chiến thắng 6–0 trước Brescia. Vào ngày 21 tháng 8, Eriksen tham gia trận thua 2-3 của Inter trước Sevilla trong trận Chung kết Europa League 2020, trở thành cầu thủ đầu tiên thua hai trận chung kết liên tiếp trong hai giải đấu lớn của UEFA, sau khi thất bại trong trận Chung kết Champions League 2019 với Tottenham.
Mùa giải 2020–21
Vào tháng 12 năm 2020, Giuseppe Marotta xác nhận Eriksen đã được đưa vào danh sách chuyển nhượng cho năm 2021; tuy nhiên, đồng đội Romelu Lukaku đã gợi ý rằng những khó khăn của Eriksen tại Inter có thể do bất đồng ngôn ngữ. Vào ngày 26 tháng 1 năm 2021, trong trận tứ kết Coppa Italia giữa Inter và Milan, Eriksen được thay vào khi tỷ số đang là 1-1. Ở phút bù giờ thứ bảy, khi trận đấu có nguy cơ bước sang hiệp phụ, anh đã ghi bàn từ một quả đá phạt trực tiếp, mang về chiến thắng cho Inter và đưa họ vào bán kết. Sau trận đấu, huấn luyện viên Antonio Conte xác nhận Eriksen sẽ ở lại câu lạc bộ dù có thông tin về việc anh có thể ra đi vào mùa đông. Vào ngày 1 tháng 5, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Inter trong chiến thắng 2–0 trên sân khách trước Crotone, giúp câu lạc bộ tiến gần hơn đến chức vô địch đầu tiên kể từ mùa giải 2009–10. Inter được xác nhận là nhà vô địch giải đấu vào ngày hôm sau, sau khi đối thủ gần nhất Atalanta không thắng trong trận đấu với Sassuolo, kết thúc chuỗi 9 năm vô địch Serie A của Juventus.
Mùa giải 2021–22
Vào ngày 29 tháng 10 năm 2021, có thông báo rằng Eriksen không được phép thi đấu cho Inter Milan do đã phải cấy máy khử rung tim sau sự cố ngừng tim tại Euro 2020. Sau gần nửa năm kể từ sự cố, Eriksen bắt đầu tập luyện cá nhân tại cơ sở của đội trẻ Odense Boldklub ở Odense để chuẩn bị trở lại bóng đá. Vào ngày 17 tháng 12, Inter Milan đã đồng ý chấm dứt hợp đồng với tiền vệ này.
Brentford
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, Eriksen gia nhập Brentford ở Premier League với bản hợp đồng 6 tháng. Ngày 26 tháng 2 năm 2022, anh có trận ra mắt khi vào sân thay cho Mathias Jensen trong trận thua 0–2 trước Newcastle United. Anh thực hiện pha kiến tạo đầu tiên trong chiến thắng 2–0 trước Burnley FC. Ngày 3 tháng 4, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên tại Premier League trong chiến thắng ấn tượng 4–1 trên sân khách trước Chelsea, đội bóng cùng thành phố.
Manchester United
Vào ngày 15 tháng 7 năm 2022, Manchester United công bố đã ký hợp đồng ba năm với Eriksen. Vào ngày 28 tháng 7 năm 2022, anh được xác nhận sẽ mặc áo số 14. Ngày 7 tháng 8, Eriksen ra sân lần đầu cho câu lạc bộ trong trận thua 2-1 trước Brighton & Hove Albion tại sân nhà. Anh có pha kiến tạo đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 3-1 trước Arsenal, khi anh kiến tạo để Marcus Rashford ghi bàn thứ hai.
Sự nghiệp quốc tế
Đội trẻ
Eriksen được triệu tập vào đội U-17 Đan Mạch vào tháng 7 năm 2007, và gây ấn tượng ngay từ lần đầu ra sân vào ngày 31 tháng 7. Trong năm 2008, anh ghi 9 bàn sau 16 trận cho U-17 Đan Mạch và được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất lứa tuổi U-17 Đan Mạch năm 2008 bởi Liên đoàn Bóng đá Đan Mạch. Anh cũng được đề cử vào danh sách rút gọn 4 ứng viên cho danh hiệu cầu thủ trẻ Đan Mạch xuất sắc nhất năm 2008, và Mathias Jørgensen là người giành danh hiệu này. Anh có tổng cộng 27 trận đấu cho U-17 Đan Mạch đến tháng 2 năm 2009. Trong năm 2009, Eriksen thi đấu 8 trận cho U-18 và U-19 Đan Mạch. Anh là một phần của đội U-21 Đan Mạch tham dự Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2011 tổ chức tại Đan Mạch, nhưng đội chủ nhà bị loại sau vòng bảng và Eriksen ghi một bàn vào lưới U-21 Belarus.
Đội tuyển quốc gia
Eriksen lần đầu tiên được gọi vào đội tuyển Đan Mạch vào tháng 2 năm 2010, và có trận ra mắt vào tháng 3 gặp Áo. Anh trở thành cầu thủ trẻ thứ tư trong lịch sử đội tuyển và là người trẻ nhất kể từ Michael Laudrup. Vào ngày 28 tháng 5 năm 2010, huấn luyện viên Morten Olsen đã chọn Eriksen vào danh sách 23 cầu thủ tham dự World Cup 2010 tại Nam Phi, biến anh thành cầu thủ trẻ nhất tại giải đấu. Tại World Cup 2010, Eriksen đã thi đấu hai trận vòng bảng với Hà Lan và Nhật Bản, nhưng Đan Mạch bị loại sau trận thua 1-3 trước Nhật Bản.
Ngày 9 tháng 2 năm 2011, trong trận giao hữu thua 1-2 trước đội tuyển Anh, Eriksen được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu và nhận được nhiều lời khen ngợi từ Frank Lampard, Rio Ferdinand (trên Twitter), huấn luyện viên Morten Olsen và truyền thông Đan Mạch cũng như Anh. Vào ngày 4 tháng 6 năm 2011, Eriksen ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển trong chiến thắng 2-0 trước Iceland tại vòng loại Euro 2012. Bàn thắng này giúp anh trở thành cầu thủ Đan Mạch trẻ nhất ghi bàn tại vòng loại Euro, phá kỷ lục của Michael Laudrup từ năm 1983.
Ngày 7 tháng 11 năm 2011, Eriksen được trao danh hiệu Cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất năm sau khi giúp Ajax giành chức vô địch Eredivisie mùa giải 2010-11 và có một chiến dịch vòng loại Euro 2012 ấn tượng với đội tuyển Đan Mạch. Trong lễ trao giải, Eriksen chia sẻ: 'Tôi rất tự hào khi đứng trên bục trao giải tối nay. Tôi thực sự bất ngờ vì giải thưởng này và nó có ý nghĩa rất lớn với tôi. Tôi xin cảm ơn các đồng đội ở đội tuyển quốc gia và ở Ajax.'
UEFA Euro 2012
Eriksen tham gia Euro 2012 với nhiều kỳ vọng lớn lao, trở thành cầu thủ đầu tiên trong lịch sử đội tuyển Đan Mạch đạt cột mốc 25 lần khoác áo đội tuyển quốc gia khi mới 20 tuổi. Dù có mặt ở cả ba trận đấu tại bảng tử thần, anh chỉ có ba cú sút mà không ghi được bàn thắng hay tạo ra pha kiến tạo nào.
World Cup 2018
Trong vòng loại World Cup 2018, tại Bảng E, Eriksen đã ghi tới 8 bàn sau 10 trận, giúp Đan Mạch giành vị trí thứ hai và lọt vào vòng play-off tranh vé dự World Cup với Cộng hòa Ireland. Trận lượt đi kết thúc với tỷ số hòa 0-0, nhưng ở lượt về, Eriksen đã lập hat-trick, góp công lớn vào chiến thắng 5–1 của Đan Mạch trước Ireland. Với 11 bàn thắng, Eriksen đứng thứ ba trong danh sách ghi bàn nhiều nhất vòng loại World Cup khu vực châu Âu, chỉ sau Robert Lewandowski (16 bàn) và Cristiano Ronaldo (15 bàn).
Tại World Cup 2018, Eriksen chỉ ghi được một bàn trong trận hòa 1-1 trước Úc ở lượt trận thứ hai vòng bảng. Trước đó, trong trận đấu đầu tiên với Peru, anh đã thực hiện đường chuyền quyết định giúp Yussuf Poulsen ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu. Đan Mạch sau đó vào vòng 16 đội, nhưng đã thua Croatia trong loạt sút penalty sau khi hòa 1-1 sau 120 phút, trong đó Eriksen đã đá hỏng quả penalty đầu tiên khi bị thủ môn Danijel Subašić cản phá.
Sự cố ngưng tim tại UEFA Euro 2020
Trong trận đấu mở màn của Đan Mạch tại Euro 2020 gặp Phần Lan vào ngày 12 tháng 6 năm 2021, Eriksen đột ngột ngã xuống sân dù không va chạm với đối thủ, và phải được hồi sức tim phổi. Trận đấu đã bị tạm dừng. Eriksen sau đó được đưa đến bệnh viện Rigshospitalet và tình trạng của anh đã ổn định. Tuy nhiên, sau khi xuất viện, anh vẫn cần thời gian nghỉ ngơi dài hạn và buộc phải chia tay Euro 2020.
Vào ngày 26 tháng 3 năm 2022, Eriksen quay trở lại đội tuyển quốc gia sau thời gian dài nghỉ thi đấu vì sự cố tại Euro 2020, trong trận thua 2–4 trước Hà Lan. Anh vào sân ở hiệp 1 và ghi bàn chỉ 2 phút sau khi vào sân. Ba ngày sau, anh ghi bàn trong chiến thắng 3–0 trước Serbia, góp phần quan trọng trong trận đấu này.
Phong cách thi đấu
Huấn luyện viên Ajax, Martin Jol, đã so sánh Eriksen với các tiền vệ huyền thoại của Ajax như Wesley Sneijder và Rafael van der Vaart. Ông đánh giá Eriksen có khả năng đọc trận đấu xuất sắc và là một số 10 cổ điển, tương tự như hai tiền vệ trên và huyền thoại Đan Mạch Michael Laudrup. Khả năng kiến tạo của Eriksen được xem là điểm mạnh nổi bật của anh.
Tuy nhiên, một trong những điểm yếu của Eriksen là phong độ không ổn định trong các trận đấu lớn. Khi còn thi đấu ở giải vô địch quốc gia Hà Lan, anh thường thể hiện tốt trong các trận đấu với các đội bóng trung bình, nhưng phải mất 3 năm để có thể ghi bàn vào lưới PSV Eindhoven, một trong những đội bóng hàng đầu tại Hà Lan.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Tính đến ngày 19 tháng 5 năm 2024
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Ajax | 2009–10 | Eredivisie | 15 | 0 | 4 | 1 | — | 2 | 0 | — | 21 | 1 | ||
2010–11 | 28 | 6 | 6 | 1 | — | 12 | 1 | 1 | 0 | 47 | 8 | |||
2011–12 | 33 | 7 | 2 | 0 | — | 8 | 1 | 1 | 0 | 44 | 8 | |||
2012–13 | 33 | 10 | 4 | 2 | — | 8 | 1 | — | 45 | 13 | ||||
2013–14 | 4 | 2 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 1 | 0 | 5 | 2 | |||
Tổng cộng | 113 | 25 | 16 | 4 | — | 30 | 3 | 3 | 0 | 162 | 32 | |||
Tottenham Hotspur | 2013–14 | Premier League | 25 | 7 | 1 | 0 | 1 | 0 | 9 | 3 | — | 36 | 10 | |
2014–15 | 38 | 10 | 2 | 0 | 4 | 2 | 4 | 0 | — | 48 | 12 | |||
2015–16 | 38 | 6 | 4 | 1 | 1 | 0 | 7 | 1 | — | 50 | 8 | |||
2016–17 | 36 | 8 | 3 | 1 | 1 | 2 | 8 | 1 | — | 48 | 12 | |||
2017–18 | 37
|
10 | 2 | 2 | 1 | 0 | 6 | 2 | — | 46 | 14 | |||
2018–19 | 35 | 8 | 0 | 0 | 4 | 0 | 12 | 2 | — | 51 | 10 | |||
2019–20 | 20 | 2 | 0 | 0 | 1 | 0 | 5 | 1 | — | 14 | 2 | |||
Tổng cộng | 226 | 51 | 15 | 4 | 13 | 4 | 51 | 10 | — | 305 | 69 | |||
Inter Milan | 2019–20 | Serie A | 17 | 1 | 3 | 1 | — | 6 | 2 | — | 26 | 4 | ||
2020–21 | 26 | 3 | 4 | 1 | — | 4 | 0 | — | 34 | 4 | ||||
Tổng cộng | 43 | 4 | 7 | 2 | — | 10 | 2 | — | 60 | 8 | ||||
Brentford | 2021–22 | Premier League | 11 | 1 | 0 | 0 | — | — | — | 11 | 1 | |||
Manchester United | 2022–23 | 19 | 1 | 2 | 0 | 4 | 1 | 6 | 0 | — | 31 | 2 | ||
2023–24 | 22 | 1 | 2 | 0 | 0 | 0 | 4 | 0 | — | 28 | 1 | |||
Tổng cộng | 50 | 2 | 6 | 0 | 4 | 1 | 12 | 0 | — | 72 | 3 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 443 | 83 | 44 | 10 | 17 | 5 | 103 | 15 | 3 | 0 | 610 | 113 |
Bao gồm UEFA Champions League và UEFA Europa League. Bao gồm Johan Cruijff Shield.
Đội tuyển quốc gia
- Tính đến ngày 29 tháng 6 năm 2024
Đội tuyển quốc gia Đan Mạch | ||
---|---|---|
Năm | Trận | Bàn |
2010 | 10 | 0 |
2011 | 10 | 2 |
2012 | 11 | 0 |
2013 | 11 | 2 |
2014 | 7 | 1 |
2015 | 8 | 1 |
2016 | 11 | 6 |
2017 | 9 | 9 |
2018 | 10 | 4 |
2019 | 10 | 6 |
2020 | 8 | 5 |
2021 | 6 | 0 |
2022 | 11 | 3 |
2023 | 6 | 1 |
2024 | 8 | 2 |
Tổng cộng | 134 | 42 |
Ghi bàn cho đội tuyển quốc gia
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 4 tháng 6 năm 2011 | Laugardalsvöllur, Reykjavík, Iceland | Iceland | 2–0 | 2–0 | Vòng loại UEFA Euro 2012 |
2. | 10 tháng 8 năm 2011 | Hampden Park, Glasgow, Scotland | Scotland | 1–1 | 1–2 | Giao hữu |
3. | 5 tháng 6 năm 2013 | Nordjyske Arena, Aalborg, Đan Mạch | Gruzia | 2–1 | 2–1 | |
4. | 14 tháng 8 năm 2013 | PGE Arena Gdańsk, Gdansk, Ba Lan | Ba Lan | 1–1 | 2–3 | |
5. | 22 tháng 5 năm 2014 | Sân vận động Nagyerdei, Debrecen, Hungary | Hungary | 2–2 | ||
6. | 8 tháng 6 năm 2015 | Sân vận động Viborg, Viborg, Đan Mạch | Montenegro | 2–1 | ||
7. | 7 tháng 6 năm 2016 | Sân vận động bóng đá thành phố Suita, Suita, Nhật Bản | Bulgaria | 2–0 | 4–0 | Cúp Kirin 2016 |
8. | 3–0 | |||||
9. | 4–0 | |||||
10. | 4 tháng 9 năm 2016 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | Armenia | 1–0 | 1–0 | Vòng loại FIFA World Cup 2018 |
11. | 11 tháng 11 năm 2016 | Kazakhstan | 2–1 | 4–1 | ||
12. | 4–1 | |||||
13. | 6 tháng 6 năm 2017 | Sân vận động Brøndby, Brøndby, Đan Mạch | Đức | 1–0 | 1–1 | Giao hữu |
14. | 10 tháng 6 năm 2017 | Astana Arena, Astana, Kazakhstan | Kazakhstan | 2–0 | 3–1 | Vòng loại FIFA World Cup 2018 |
15. | 1 tháng 9 năm 2017 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | Ba Lan | 4–0 | 4–0 | |
16. | 4 tháng 9 năm 2017 | Sân vận động Cộng hòa Vazgen Sargsyan, Yerevan, Armenia | Armenia | 2–1 | 4–1 | |
17. | 5 tháng 10 năm 2017 | Sân vận động Goricom, Podgorica, Montenegro | Montenegro | 1–0 | 1–0 | |
18. | 8 tháng 10 năm 2017 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | România | 1–1 | ||
19. | 14 tháng 11 năm 2017 | Sân vận động Aviva, Dublin, Ireland | Cộng hòa Ireland | 2–1 | 4–0 | |
20. | 3–1 | |||||
21. | 4–1 | |||||
22. | 9 tháng 6 năm 2018 | Sân vận động Brøndby, Brøndby, Đan Mạch | México | 2–0 | 2–0 | Giao hữu |
23. | 21 tháng 6 năm 2018 | Cosmos Arena, Samara, Nga | Úc | 1–0 | 1–1 | FIFA World Cup 2018 |
24. | 9 tháng 9 năm 2018 | Idrætspark, Aarhus, Đan Mạch | Wales | 2–0 | UEFA Nations League 2018–19 | |
25. | 2–0 | |||||
26. | 21 tháng 3 năm 2019 | Sân vận động Fadil Vokrri, Pristina, Kosovo | Kosovo | 1–1 | 2–2 | Giao hữu |
27. | 10 tháng 6 năm 2019 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | Gruzia | 2–1 | 5–1 | Vòng loại UEFA Euro 2020 |
28. | 5 tháng 9 năm 2019 | Sân vận động Victoria, Gibraltar | Gibraltar | 2–0 | 6–0 | |
29. | 3–0 | |||||
30. | 15 tháng 11 năm 2019 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | 5–0 | |||
31. | 6–0 | |||||
32. | 7 tháng 10 năm 2020 | MCH Arena, Herning, Đan Mạch | Quần đảo Faroe | 2–0 | 4–0 | Giao hữu |
33. | 11 tháng 10 năm 2020 | Laugardalsvöllur, Reykjavík, Iceland | Iceland | 3–0 | UEFA Nations League 2020–21 | |
34. | 14 tháng 10 năm 2020 | Sân vận động Wembley, London, Anh | Anh | 1–0 | 1–0 | |
35. | 15 tháng 11 năm 2020 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | Iceland | 2–1 | ||
36. | 2–1 | |||||
37. | 26 tháng 3 năm 2022 | Johan Cruyff Arena, Amsterdam, Hà Lan | Hà Lan | 2–3 | 2–4 | Giao hữu |
38. | 29 tháng 3 năm 2022 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | Serbia | 3–0 | 3–0 | |
39. | 22 tháng 9 năm 2022 | Sân vận động Maksimur, Zagreb, Croatia | Croatia | 1–1 | 1–2 | UEFA Nations League 2022–23 |
40. | 7 tháng 9 năm 2023 | Sân vận động Parken, Copenhagen, Đan Mạch | San Marino | 4–0 | 4–0 | Vòng loại UEFA Euro 2024 |
41. | 5 tháng 6 năm 2024 | Thụy Điển | 2–1 | 2–1 | Giao hữu | |
42. | 16 tháng 6 năm 2024 | MHPArena, Stuttgart, Đức | Slovenia | 1–0 | 1–1 | UEFA Euro 2024 |
Danh hiệu đạt được
Câu lạc bộ
Ajax
- Eredivisie: 2010–11, 2011–12, 2012–13
- KNVB Cup: 2009–10
- Johan Cruyff Shield: 2013
Inter Milan
- Serie A: 2020–21
Manchester United
- FA Cup: 2023–24
- EFL Cup: 2022–23
Danh hiệu cá nhân
- Danh hiệu Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của AFC Ajax: 2010
- Danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của AFC Ajax: 2011
- Cầu thủ xuất sắc nhất năm của bóng đá Hà Lan (1): 2011
- Cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất lứa tuổi U-17: 2008
- Cầu thủ Đan Mạch xuất sắc nhất năm (4): 2011, 2013, 2014, 2017
- Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Tottenham Hotspur (2): 2013–14, 2016–17
- Đội hình xuất sắc nhất giải Ngoại hạng Anh theo PFA: 2017-18
- Bàn thắng đẹp nhất tháng tại Giải bóng đá Ngoại Hạng Anh: tháng 4 năm 2018
Chú thích
Liên kết ngoài
- Christian Eriksen trên National-Football-Teams.com
- Thông tin về Christian Eriksen tại đội tuyển quốc gia Đan Mạch
- Thông tin về Christian Eriksen trên Voetbal International Lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2010 tại Wayback Machine
Tài năng Ajax Amsterdam trẻ xuất sắc nhất năm (Giải thưởng Marco van Basten) |
---|
Manchester United F.C. – đội hình hiện tại |
---|
Cầu thủ bóng xuất sắc nhất năm Đan Mạch |
---|
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ đóng <references group='lower-alpha'/>
hoặc thẻ đóng </ref>
bị thiếu