Cá hề | |
---|---|
Cá hề ocellaris | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Perciformes |
Họ (familia) | Pomacentridae |
Phân họ (subfamilia) | Amphiprioninae |
Các chi | |
Amphiprion Bloch & Schneider, 1801 |
Cá hề, còn gọi là cá hải quỳ (tên Latin: Amphiprioninae; tiếng Anh: anemonefish hay clownfish), là loài cá biển sinh sống tại các rạn đá ngầm và san hô, thuộc họ Cá thia. Hiện nay có ba mươi loài được biết đến: một số thuộc chi Premnas, số khác thuộc chi Amphiprion. Trong tự nhiên, chúng thường cộng sinh với hải quỳ. Tùy theo loài, cá hề có màu vàng, cam, đỏ nhạt, đen nhạt xen lẫn các sọc trắng. Cá hề lớn nhất có thể dài tới 18 cm (7,1 in), trong khi loài nhỏ nhất chỉ khoảng 10 cm (3,9 in). Chúng chủ yếu hình thành quan hệ cộng sinh với ba loài hải quỳ: Heteractis magnifica, Stichodactyla gigantia và Stichodactyla mertensii.
Phân bố, mật độ và môi trường sống
Cá hề sinh sống ở các vùng nước ấm thuộc Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, bao gồm dải san hô Great Barrier Reef và Biển Đỏ. Một số loài có phân bố hạn chế, trong khi số khác lại sống rải rác. Chúng cư trú ở đáy các vùng biển nông trong các khu vực rạn san hô hoặc đầm phá. Không có loài cá hề nào sống ở Đại Tây Dương.
Mật độ dân số của cá hề không được xác định chính xác, nhưng chúng rất phổ biến tại các khu vực sinh sống. Loài cá này không nằm trong danh sách nguy cơ tuyệt chủng của IUCN. Tuy nhiên, các rạn san hô nơi chúng sinh sống đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, với 15% đến 30% rạn san hô đã biến mất trong thế hệ này. Sau khi bộ phim 'Finding Nemo' ra mắt vào năm 2003, nhu cầu nuôi cá hề làm cảnh đã tăng mạnh, và điều này được cho là góp phần vào sự suy thoái của các rạn san hô.
Chế độ ăn
Cá hề là loài ăn tạp, ăn cả thực vật và động vật. Chúng chủ yếu săn động vật phù du và thực vật phù du, được gọi là “Những kẻ săn sinh vật phù du”, nhắm mục tiêu những sinh vật nhỏ này trôi nổi trong cột nước trước khi ăn. Khác với phương pháp ăn lọc, cá hề săn mồi một cách chủ động. Chúng ăn động vật không xương sống nhỏ, các loại tảo và thức ăn thừa từ hải quỳ.
Tập tính
Cá hề là loài ăn tạp, tiêu hóa cả thức ăn không tiêu hóa từ hải quỳ. Chất thải của chúng cung cấp dinh dưỡng cho hải quỳ. Chúng chủ yếu ăn các loài động vật phù du nhỏ như copepod và ấu trùng, và một phần chế độ ăn là tảo, trừ cá hề hồng chủ yếu ăn tảo. Cá hề có thể tiêu hóa cả xúc tu của hải quỳ. Chúng giao tiếp bằng cách đập hai hàm vào nhau, tạo ra tiếng lách cách khi phát hiện kẻ xâm lược hoặc thu hút bạn tình. Tiếng lách cách này khoảng 5 lần mỗi giây, nhưng cách tạo ra âm thanh vẫn là một bí ẩn.
Mối quan hệ cộng sinh
Cá hề và hải quỳ có mối quan hệ cộng sinh, bảo vệ và hỗ trợ lẫn nhau. Hải quỳ bảo vệ cá hề khỏi kẻ thù và cung cấp thức ăn thừa, đôi khi cả xúc tu chết. Ngược lại, cá hề bảo vệ hải quỳ khỏi ký sinh trùng và cung cấp phân làm chất dinh dưỡng. Lượng Nitơ từ phân cá hề giúp tăng số lượng tảo trong mô hải quỳ, hỗ trợ sự phát triển và tái sinh. Cá hề cũng thu hút cá nhỏ đến hải quỳ, cải thiện sự lưu thông nước quanh xúc tu hải quỳ, giúp cả hai đối tác tăng kích thước cơ thể và hô hấp.
Có nhiều giả thuyết giải thích vì sao cá hề không bị hải quỳ nhiễm độc:
- Dịch nhầy bao phủ ngoài cơ thể cá hề chủ yếu là đường thay vì protein, khiến hải quỳ không nhận ra và tấn công bằng tế bào châm ngứa.
- Sự đồng tiến hóa giữa cá hề và hải quỳ giúp cá hề miễn dịch với chất độc của hải quỳ. Thí nghiệm cho thấy cá hề Amphiprion percula có thể chống lại chất độc của Heteractis magnifica, nhưng nếu mất lớp dịch nhầy, chúng vẫn bị tấn công.
Cá hề là ví dụ điển hình về loài cá sống trong xúc tu chứa nọc độc của hải quỳ, nhưng còn có một số loài khác như Dascyllus trimaculatus, đôi khi là Họ Cá sơn như Pterapogon kauderni, anemone goby và Oxylebius pictus.
Sinh sản
Cá hề đẻ trứng trên các bề mặt phẳng gần hải quỳ chủ. Trong tự nhiên, chúng thường đẻ trứng vào thời điểm trăng tròn. Tùy loài, cá hề có thể đẻ hàng trăm đến hàng nghìn trứng. Con đực bảo vệ trứng cho đến khi nở, khoảng sáu đến mười ngày sau, thường là hai giờ sau hoàng hôn. Sau khi nở, cá hề sống ngoài khơi 10-20 ngày, có thể do dòng hải lưu cuốn ra, nhưng chúng vẫn có khả năng tìm đường về rạn san hô nơi sinh ra. Nhóm nghiên cứu của Danielle Dixson từ Đại học James Cook, Úc, đã thử nghiệm trên cá hề nuôi trong hồ chưa từng sống trên rạn san hô. Kết quả cho thấy chúng bị thu hút bởi mùi lá và cỏ chân ngỗng từ rừng trên đảo gần rạn san hô, chứng tỏ sở thích này là bẩm sinh. Cá hề đều sinh ra là cá đực. Một khi chuyển thành cá cái, chúng không thể trở lại thành cá đực.
Giới tính
Hầu hết cá hề là loài lưỡng tính tuần tự, nghĩa là chúng có thể chuyển đổi giới tính từ đực sang cái và ngược lại trong một số giai đoạn của cuộc đời. Một đàn cá hề thường bao gồm một con đực sinh sản, một con cái và vài con non. Mặc dù có nhiều con đực sống chung với một con cái, nhưng chỉ có cặp trưởng thành mới tham gia sinh sản. Nếu con cái đầu đàn chết, con đực đầu đàn sẽ đổi giới tính thành con cái, và con lớn nhất trong số những con còn lại sẽ trở thành con đực sinh sản. Sự hiện diện của những con đực trưởng thành có thể bị ngăn cản nếu không có con nào thích hợp để thay thế. Chiến lược này giúp giảm xung đột bằng cách giảm cạnh tranh giữa các con đực với con cái.
Trong bể nuôi
Cá hề chiếm 43% thị trường cá cảnh toàn cầu và 25% trong số này là từ nuôi nhốt, phần còn lại là từ tự nhiên, dẫn đến việc suy giảm số lượng cá ở những khu vực khai thác. Các bể nuôi công cộng và chương trình nuôi sinh sản rất quan trọng để duy trì ngành công nghiệp cá cảnh và hiện đã có thể thực hiện được về mặt kinh tế. Cá hề là một trong số ít loài cá cảnh có thể hoàn thành vòng đời trong điều kiện nuôi nhốt. Một số loài cá hề, như cá hề màu hạt dẻ, trở nên hung hăng khi nuôi nhốt; trong khi đó, các loài khác như cá hề ocellaris có thể sống chung hòa bình trong bể.
Phân loài
Lịch sử của cá hề được xác định dựa trên đặc điểm hình thái và hoa văn màu sắc trên cơ thể, trong khi các phòng thí nghiệm còn xem xét các đặc tính như: Vảy của con đầu đàn, hình dạng răng và tỷ lệ cơ thể. Những đặc điểm này được dùng để phân loại cá hề thành sáu phức hệ: clownfish, tomato, skunk, clarkii, saddleback và maroon.
Người ta cho rằng hỗ sinh bắt buộc là sự đổi mới quan trọng cho phép cá hề phát triển nhanh chóng, với các thay đổi hình thái tương quan với hệ sinh thái do hải quỳ chủ cung cấp. Có hai nhóm tiến hóa với các cá thể của hai loài được tìm thấy trong cả hai, do đó hai loài này thiếu đơn ngành thuận nghịch. Không có Haplotype nào được chia sẻ giữa các loài.
</ref>
để đóng thẻ <ref>
A. ocellarisHình ảnh
-
Cá hề Sebae (Amphiprion sebae) và hải quỳ ở Maldives.
-
Cá hề Allard (Amphiprion allardi).
-
Cá hề Maldive (Amphiprion nigripes). Đôi khi còn gọi là cá hề đen pelvic và anal fins.
Ghi chú
Liên kết ngoài
- Cá hải quỳ Amphiprion tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Hồ sơ các loài cá hề trên AquariumDomain. Lưu trữ 2011-07-07 tại Wayback Machine
- (tiếng Đức) Bộ sưu tập ảnh của Amphiprion ocellaris và trứng của chúng Lưu trữ 2021-03-13 tại Wayback Machine
- Monterey Bay Aquarium: Video và thông tin Lưu trữ 2008-07-24 tại Wayback Machine
- Bộ sưu tập ảnh chụp dưới nước của cá hề Lưu trữ 2010-06-09 tại Wayback Machine
Tiêu đề chuẩn |
|
---|