Kinh nguyệt bao gồm các biến đổi sinh lý lặp đi lặp lại trong cơ thể phụ nữ, được điều chỉnh bởi hệ thống hormone sinh dục, và là yếu tố thiết yếu cho khả năng sinh sản. Chu kỳ này thường diễn ra hàng tháng giữa tuổi dậy thì và mãn kinh ở phụ nữ.
Trong chu kỳ kinh nguyệt, cơ thể phụ nữ sẽ phóng thích một trứng (hoặc đôi khi hai trứng, có thể dẫn đến sinh đôi khác trứng) vào giai đoạn rụng trứng. Trước khi rụng trứng, lớp nội mạc tử cung được chuẩn bị đồng bộ để đón nhận trứng đã thụ tinh và phát triển thai kỳ. Nếu không có sự thụ tinh và thai kỳ, lớp nội mạc sẽ bị loại bỏ và chu kỳ kinh mới bắt đầu. Quá trình này, gọi là hành kinh, thể hiện qua việc kinh khi lớp nội mạc tử cung và máu được thải ra ngoài qua âm đạo. Dù thường được gọi là máu, nhưng thành phần của nó khác với máu tĩnh mạch.
Hành kinh cho thấy người phụ nữ không có thai. (Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng chính xác vì đôi khi có thể xảy ra hiện tượng chảy máu nhẹ trong giai đoạn đầu của thai kỳ.) Trong thời kỳ sinh sản, sự vắng mặt của hành kinh thường là dấu hiệu đầu tiên của việc có thể mang thai. Trễ kinh xảy ra khi chu kỳ hành kinh dự kiến đã qua nhưng không xuất hiện, có thể là dấu hiệu của việc đã thụ thai.
Hành kinh là một phần tự nhiên của quá trình sinh lý ở phụ nữ khỏe mạnh, bắt đầu từ tuổi dậy thì cho đến khi kết thúc tuổi sinh sản. Tuổi trung bình để lần hành kinh đầu tiên thường là 12 tuổi, nhưng có thể bắt đầu từ 8 đến 16 tuổi. Mãn kinh, hoặc lần hành kinh cuối cùng, thường xảy ra từ 45 đến 55 tuổi. Nếu có sự thay đổi lớn so với chu kỳ bình thường, cần được kiểm tra y tế. Vô kinh, nghĩa là không có kinh nguyệt trong một khoảng thời gian dài không do mang thai, có thể xảy ra ở phụ nữ có lượng mỡ cơ thể rất thấp, như các vận động viên. Sự có mặt của kinh nguyệt không chứng minh việc rụng trứng đã xảy ra, và phụ nữ không rụng trứng vẫn có thể có chu kỳ kinh nguyệt. Các chu kỳ kinh nguyệt không rụng trứng thường không đều và có thể có độ dài chu kỳ thay đổi lớn. Ngược lại, không có kinh nguyệt cũng không chứng minh việc không có rụng trứng, vì sự bất thường về hormone ở phụ nữ không mang thai có thể gây cản trở hiện tượng chảy máu.
Từ nguyên
Kinh: trải qua, từng trải. Nguyệt: tháng. Theo định nghĩa của Việt-Nam Tự-Điển, 'kinh nguyệt' có nghĩa là 'sự thấy tháng' ở phụ nữ.
Tổng quan
Kinh nguyệt thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày, tuy nhiên, kéo dài từ 2 đến 7 ngày vẫn được coi là bình thường. Chu kỳ kinh nguyệt lý tưởng là 28 ngày, tính từ ngày đầu tiên của chu kỳ này đến ngày đầu tiên của chu kỳ tiếp theo. Chu kỳ kinh nguyệt ở phụ nữ trưởng thành thường dao động từ 21 đến 35 ngày, trong khi ở thiếu nữ, chu kỳ có thể kéo dài từ 21 đến 45 ngày. Những triệu chứng thường gặp trong thời gian hành kinh như đau ngực, sưng, đầy hơi, mụn trứng cá được gọi là molimina tiền kinh nguyệt.
Thể tích trung bình của dịch kinh nguyệt trong một chu kỳ là khoảng 35 ml, mặc dù từ 10 đến 80 ml cũng được coi là bình thường. Dịch kinh nguyệt, thường được gọi là máu kinh, thực chất là một hỗn hợp chứa một lượng nhỏ máu cùng với chất nhầy từ cổ tử cung, âm đạo và mô nội mạc cổ tử cung. Màu sắc của dịch này thường là nâu đỏ, đậm hơn so với màu máu tĩnh mạch.
Nhiều phụ nữ trưởng thành thường thấy xuất hiện máu cục trong kỳ hành kinh. Những cục máu này có thể trông như mô mềm. Nếu có nghi ngờ, chẳng hạn như sẩy thai, việc kiểm tra dưới kính hiển vi có thể xác định liệu đó có phải là mô nội mạc tử cung hay mô thai (đã thụ thai) bị thải ra. Đôi khi máu cục hoặc mô nội mạc tử cung bị thải không phản ánh chính xác sự sẩy thai sớm của phôi. Một enzyme gọi là plasmin – chứa trong nội mạc tử cung – có tác dụng ức chế sự đông máu.
Mặc dù lượng sắt mất trong dịch kinh nguyệt là tương đối nhỏ, nhiều phụ nữ vẫn có thể gặp triệu chứng thiếu sắt. Một nghiên cứu cho thấy phụ nữ tiền mãn kinh có thể biểu hiện triệu chứng thiếu sắt khi nội soi, và 86% trong số đó thực sự có vấn đề về đường tiêu hóa, có thể bị chẩn đoán nhầm chỉ vì đang hành kinh. Chảy máu nhiều trong kỳ kinh hàng tháng có thể dẫn đến tình trạng thiếu máu.
Kỳ kinh nguyệt đầu tiên thường xuất hiện sau khi quá trình dậy thì bắt đầu. Tuổi bắt đầu có kinh thường vào khoảng 12–13 tuổi (sớm hơn ở bé gái Mỹ gốc Phi so với người da trắng châu Âu), nhưng có thể xuất hiện trong khoảng 9 đến 15 tuổi. Nếu có kinh quá sớm hoặc quá muộn, cần được kiểm tra; nhiều tài liệu cũ khuyến nghị kiểm tra nếu có kinh trước 10 tuổi hoặc sau 16 tuổi. Các tài liệu mới hơn khuyên nên kiểm tra nếu có kinh trước 9 tuổi hoặc không có kinh ở tuổi 15, nếu không thấy sự phát triển của ngực ở tuổi 13, hoặc không có chu kỳ trong vòng 3 năm sau khi ngực phát triển. Mãn kinh là giai đoạn mà khả năng sinh sản của phụ nữ giảm, và kỳ kinh có thể không đều trong nhiều năm sau kỳ kinh cuối cùng, cho đến khi ngừng hoàn toàn. Theo định nghĩa y học, mãn kinh được xác định khi không có kỳ kinh nào trong một năm và thường xảy ra ở cuối tuổi 40 hoặc đầu 50 tại các quốc gia phương Tây.
Cơ chế chu kỳ kinh nguyệt
Chu kỳ kinh nguyệt bình thường được chia thành hai giai đoạn chính: pha nang noãn và pha hoàng thể.
Pha nang noãn
Hành kinh (kết thúc kỳ kinh):
Ngày đầu tiên của chu kỳ kinh nguyệt, tức là ngày đầu tiên có máu từ âm đạo, được tính là ngày 01. Giai đoạn hành kinh thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Trong thời gian này, lớp nội mạc tử cung bị bong tróc do sự giảm sút của hormone sinh dục. Khi máu ngừng chảy, giai đoạn này kết thúc, nội mạc tử cung mỏng nhất và giai đoạn tiếp theo, giai đoạn phát triển nội mạc, bắt đầu.
Quá trình phát triển nội mạc:
Sau khi hết kinh nguyệt, cơ thể sẽ kích hoạt lại hoạt động của vùng hạ đồi và tuyến yên, dẫn đến việc vùng hạ đồi tiết ra các đợt GnRH (Gonadotropin Releasing Hormone). GnRH sẽ kích thích thùy trước của tuyến yên sản xuất hai hormone chính là FSH và LH.
Dưới sự tác động của FSH, các nang noãn ở buồng trứng sẽ phát triển và tiết ra Estrogen (E2). E2 có những tác dụng sau đây:
- Ức chế sự tiết FSH thông qua cơ chế phản hồi âm, làm giảm dần nồng độ FSH trong máu, chỉ có một nang noãn đủ lượng FSH cần thiết sẽ phát triển thành nang noãn trưởng thành, từ đó giới hạn số lượng noãn nang được phóng ra (thường gọi là rụng trứng) trong mỗi chu kỳ.
- Kích thích sự phát triển của nội mạc tử cung, làm cho nội mạc dày lên, các mạch máu gia tăng, và đồng thời hỗ trợ tổng hợp các thụ thể cho Progesterone.
Khi nồng độ E2 đạt ngưỡng nhất định, nó sẽ kích thích tuyến yên tiết ra một lượng lớn LH vào máu, gây ra hiện tượng phóng noãn (thường xảy ra giữa chu kỳ), đánh dấu kết thúc pha nang noãn và chuyển sang pha hoàng thể.
Hoàng thể.
Sau khi quá trình phóng noãn hoàn tất, phần còn lại của nang noãn trên buồng trứng sẽ co lại, các mạch máu cung cấp dưỡng chất sẽ phát triển, lượng cholesterol gia tăng, tạo thành một cấu trúc mới gọi là hoàng thể. Cấu trúc này sản xuất E2 và Progesterone (P4), được duy trì nhờ hormone LH hoặc beta-hCG.
Chức năng của P4:
- Giữ ổn định nội mạc tử cung, làm cho các mạch máu trở nên xoắn, bám sâu và cung cấp máu hiệu quả hơn, tạo điều kiện lý tưởng cho sự thụ tinh.
- Ức chế quá trình chế tiết LH từ tuyến yên và GnRH từ tuyến yên, làm giảm dần nồng độ LH, từ đó làm giảm sản xuất P4 do hoàng thể không còn được LH duy trì.
Diễn biến tiếp theo phụ thuộc vào việc có xảy ra thụ tinh hay không. Nếu không có thụ tinh, nồng độ LH sẽ giảm do sự ức chế của P4 từ hoàng thể, dẫn đến việc hoàng thể bị tiêu hủy, làm giảm E2 và P4. Nội mạc tử cung không còn được duy trì bởi E2 và P4, gây ra sự sụp đổ của nội mạc, và từng lớp của nội mạc sẽ bong ra. Quá trình hành kinh và ngày đầu của chu kỳ mới sẽ bắt đầu lại.
Khi xảy ra thụ tinh, nồng độ LH vẫn giảm do sự ức chế của Progesterone, nhưng hoàng thể sẽ được duy trì nhờ beta-hCG (human chorionic gonadotropin) do hợp bào nuôi của phôi thai tiết ra (thường vào ngày 8 - 10 sau thụ tinh). Chu kỳ kinh nguyệt sẽ bị ngưng cho đến khi thai kỳ kết thúc và trục hạ đồi tuyến yên hoạt động trở lại.
- Chu kỳ kinh nguyệt
- Mãn kinh