Duy Chiến (Vietnamnet)
Tuần Việt Nam giới thiệu chuỗi bài viết về Tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa, nhằm hệ thống một số dữ liệu lịch sử quan trọng, phục vụ cho việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Bài đầu tiên trong chuỗi này mang tính khái quát và kích thích ý thức.
Những bản ghi sớm nhất:
Các bản ghi lịch sử về Hoàng Sa và Trường Sa của người Việt là những bản ghi sớm nhất trên thế giới, từ đầu thế kỷ 17 đến nay ghi chép liên tục về Hoàng Sa và Trường Sa.
Địa danh Hoàng Sa, được ghi chép trong chữ Nôm là 'Bãi cát vàng', đã được xác định là quần đảo Paracel bởi người phương Tây vào thế kỷ 19. Các bản ghi chép của các nhà nghiên cứu, nhà truyền giáo và nhà buôn phương Tây đều mô tả Paracel như một quần đảo bao gồm đảo, đá và bãi san hô ven bờ biển miền Trung kéo dài tới biển Bình Thuận (An Nam đại quốc họa đổ).
Tuy nhiên, đến thế kỷ 18 và một thời gian dài sau đó, các nhà địa lý Việt Nam cũng như các nhà hàng hải phương Tây chưa phân biệt rõ ràng hai quần đảo này. Nhiều tác giả vẫn coi chúng là một, dài dọc bờ biển miền Trung của Việt Nam.
Đối với người Việt, Hoàng Sa hay Bãi cát vàng (có tài liệu còn gọi là Đại Trường Sa hoặc Vạn Lý Trường Sa) để chỉ những bãi cát dài từ phía Bắc đến phía Nam biển Đông. Đến đầu thế kỷ 20, cách gọi như trên vẫn được sử dụng. Trong Dụ số 10 năm 1933 (Văn bản của nhà Vua) thời Bảo Đại và sắc lệnh số 143 năm 1965 của tổng thống Ngô Đình Diệm, vẫn sử dụng thuật ngữ Hoàng Sa (Paracel) để đề cập đến cả hai quần đảo.
TS sử học Nguyễn Nhã cùng các đồng nghiệp châu Âu nghiên cứu lịch sử phương Đông đã phát hiện một điều rất thú vị: Người Trung Hoa thời cổ, trung đại không quan tâm đến biển. Với họ, lãnh thổ được gọi là 'Giang sơn', có nghĩa là 'sông núi', hiểu theo ngôn ngữ hiện đại là lục địa. Trong khi đó, người Việt nhìn nhận lãnh thổ rộng lớn hơn, bao gồm cả biển, và gọi là 'Đất nước'. Trong ý thức của người Việt, 'Đất nước' là Tổ quốc, bao gồm cả lục địa và biển đảo.
Tuy nhiên, người Pháp đã phân biệt rõ ràng hai quần đảo này sớm nhất bằng hai tên gọi khác nhau. Những bản ghi chép của người Pháp cho thấy vào thời điểm đó, Hoàng Sa được gọi là Pracels ở phía Bắc, còn Spratley ở phía Nam.
Đến những năm 1970, việc phân biệt hai quần đảo này được sử dụng và phổ biến rộng rãi.
Tổng cộng, dù có sự khác biệt về tên gọi nhưng trong các tài liệu từ rất sớm như “Đại Nam thống nhất toàn đổ' và 'Bắc kỳ hội đổ', Hoàng Sa và Trường Sa vẫn được mô tả trong một chuỗi liên tục từ Bắc xuống Nam... thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa trong lịch sử:
Đến nay, một trong những tài liệu mô tả chi tiết và cụ thể nhất về Hoàng Sa là sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn.
Năm 1775, chúa Trịnh ở đàng ngoài gửi Lê Quý Đôn đến Phú Xuân để chuẩn bị kế hoạch bình định hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam, mà họ mới chiếm được từ chúa Nguyễn một năm trước. Năm 1776, ông được phong chức Hiệp trấn và viết sách 'Phủ biên tạp lục'. Sách gồm 6 quyển, trong đó quyển 2 ghi chép khá nhiều và rõ về việc chúa Nguyễn xác lập chủ quyền tại Hoàng Sa.
Bản đồ năm 1749 của các nhà hàng hải phương Tây được phát hành và sử dụng. Trang 78b và 79a có đoạn như sau: '...ở ngoài cửa biển lớn thuộc về địa phận xã An Bình, huyện Bình Sơn phù Quảng Nghĩa (nay là tỉnh Quảng Ngãi) có một hòn núi mang tên Cù Lao Ré. Chiều rộng của núi này khoảng hơn 30 dặm. Ngày xưa, có dân cư tại phường Tứ Chính trồng các loại cây đậu trên ruộng nương nơi đó. Người ta ra biển rồi chèo thuyền đi bốn canh nữa có thể đến Cù Lao Ré. Vào phía ngoài núi Cù Lao Ré là đảo Đại Trường Sa. Nơi đây thường sản xuất nhiều hải sản được bán đi khắp nơi nên nhà nước đã thiết lập một đội Hoàng Sa để thu nhận hải sản. Người ta mất 3 ngày đêm mới đến được đảo Đại Trường Sa. Như vậy, đảo Đại Trường Sa đã gần đến xứ Bắc Hải...'.
Nhà sử học Lê Quý Đôn đã mô tả về Hoàng Sa như sau: '...Ngoài biển phía đông bắc có nhiều cù lao, núi non hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển. Từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trên đảo có bãi cát vàng dài khoảng hơn 20 dặm, phẳng lớn, nước trong suốt đáy. Trên đảo có vô số yến sào. Các loài chim có hàng nghìn, hàng vạn, khi gặp người thì đậu vòng quanh không sợ. Bên bãi có nhiều loài vật lạ. Vỏ ốc vân có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục không như ngọc trai...'.
Đây là vùng biển có nhiều bão trong năm, nơi nhiều thuyền buôn đến trú ẩn. Ghi chép của nhà sử học Lê Quý Đôn trong 'Phủ biên tạp lục' rất rõ: 'Các thuyền ngoại đợi bị bão thường trú ở đảo này (đảo Hoàng Sa - TG). Trước khi triều đình Nguyễn thành lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, gồm người thôn An Vĩnh, cắt tầu cứ hai tháng nhận giấy sai đi, miễn phí cho tiền thu nhập và tiền tuần đò, cho thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo Hà Tiên, tìm kiếm vật phẩm của tàu và các loại hàng hóa trao đổi, bào ngư, hải sâm. Đội Hoàng Sa cũng được cai quản...'.
Về cách quản lý của nhà Nguyễn, Lê Quý Đôn đã tìm hiểu, nghiên cứu và ghi chép một cách tỉ mỉ: 'Nhà Nguyễn lại thành lập đội Bắc hải, không cố định số lượng. Người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai muốn tham gia sẽ nhận giấy sai đi, miễn phí cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo Hà Tiên, tìm kiếm và trao đổi các vật phẩm, bào ngư, hải sâm. Cũng giao cho đội Hoàng Sa trách nhiệm quản lý...'.
Đặc biệt, xung quanh vùng biển Hoàng Sa lúc đó, có thuyền của người Trung Quốc bị bão cuốn, và ngược lại, cũng có thuyền của người Việt bị gió bão đưa đến đảo Hải Nam của Trung Quốc.
Chính quyền hai bên xử lý vấn đề ngư dân gặp nạn một cách văn minh và tử tế. Trong cuốn 'Phủ biên tạp lục', có một đoạn ghi lại như sau: 'Gần Hoàng Sa, cạnh phủ Liêm Châu, ở đảo Hải Nam, ngư dân từng gặp thuyền đánh cá của Bắc quốc (tức Trung Quốc - TG), họ gặp nhau trên biển. Tôi từng đọc một văn bản của quan chính ở huyện Văn Xương, Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa, kể về việc năm Kiền Long thứ 18 có 10 người thuyền của xã An Vĩnh, huyện Chương Nghĩa, phủ Quảng Ngãi của nước An Nam, vào tháng 7, đến Vạn Lý Trường Sa (cũng là tên gọi của Hoàng Sa hiện nay - TG) để tìm kiếm. Khi họ tiến vào bờ để tìm kiếm, chỉ còn 2 người trên thuyền, nhưng thuyền bị gió đánh đứt dây neo và cuốn vào Lan cảng (trên đảo Hải Nam). Quan chức ở đó đã xem xét tình hình và sau đó trả lại thuyền cho nguyên chủ, Nguyễn Phúc Chu (chúa Nguyễn) đã gửi quan chức ở Thuận Hóa là Thức Lượng một lá thư cảm ơn.'