Chùa Dạm Đại Lãm Thần Quang tự | |
---|---|
Cột đá với họa tiết chạm rồng thời Lý ở Chùa Dạm | |
Vị trí | |
Quốc gia | Việt Nam |
Địa chỉ | phường Nam Sơn, Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh |
Thông tin | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Khởi lập | 1086 |
| |
Chùa Dạm, còn được gọi là chùa Rạm hay Đại Lãm Thần Quang tự, trước đây cũng mang các tên như chùa Bà Tấm, chùa Cao, hay chùa Trăm Gian vì từng có 100 gian (dù không phải chùa Trăm Gian thuộc Hà Nội). Chùa còn được biết đến với tên chùa Lãm Sơn, theo tên núi. Nằm dựa lưng vào núi Dạm và hướng ra sông Đuống, chùa từng thuộc xã Lãm Sơn Trung, tổng Lãm Sơn Nam, huyện Quế Dương, nay là phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh. Đây là một danh lam từ thời Lý với lịch sử gần 1.000 năm và hiện là một di tích quan trọng của tỉnh Bắc Ninh.
Lịch sử
Thời kỳ Lý, Trần
Theo các tài liệu như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, và Lịch triều hiến chương loại chí, vào năm Quảng Hựu thứ nhất (1085), Nguyên phi nhà Lý Ỷ Lan khi thăm Đại Lãm Sơn đã có ý định xây dựng chùa.
Vào năm 1086, triều đình nhà Lý đã chỉ đạo xây dựng chùa. Đến năm 1087, vua Lý Nhân Tông đến thăm công trình đang trong quá trình xây dựng, tổ chức tiệc và làm bài thơ 'Lãm Sơn dạ yến'. Sau mười năm, đến năm 1094, chùa Dạm mới hoàn thành, được vua đặt tên là Cảnh Long Đồng Khánh và cấp 300 mẫu ruộng tự điền cho chùa để có nguồn lợi, cùng với việc giao cho bảy gia đình dưới núi đảm nhiệm việc mở cửa chùa. Đến năm 1105, ba tháp đá được xây thêm tại chùa Lãm Sơn.
Trong suốt thời gian dài sau đó, chùa Dạm được triều đình đặc biệt quan tâm và mở rộng quy mô. Vua Trần Nhân Tông đã đến thăm chùa và ca ngợi vẻ đẹp kiến trúc của chùa qua bài thơ mô tả mười hai lớp kiến trúc của chùa.
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1946
Theo truyền thống dân gian, trong những năm 1946-1947, quân đội thực dân Pháp đã đóng quân ở đây, và người dân địa phương đã đốt chùa để phục vụ cho cuộc kháng chiến. Các cụ già vẫn nhớ rõ: 'Ngôi chùa cháy trong vài ngày mới tắt. Trong đêm cháy, một cơn bão lớn đã cuốn bụi và khói mịt mù, khiến dân làng hoảng sợ và hứa sẽ dựng lại chùa để không xúc phạm thần linh. Khi chùa bị phá, tượng Nguyên phi Ỷ Lan và tượng vua Lý Nhân Tông đã được gửi vào chùa Hàm Long gần đó, nhờ vậy mà vẫn còn giữ được đến nay. Toàn bộ di vật và cổ vật đã bị mất, nên người dân coi hai pho tượng cổ còn lại là bảo vật quý giá.
Từ năm 2008 trở về trước, chùa Dạm chưa được trùng tu để phục hồi nguyên trạng như xưa. Hiện tại, 100 gian xưa đã được thay thế bằng ba gian điện nhỏ thờ thần Phật ở nền cấp thứ ba và ba gian đền ở nền cấp thứ tư để thờ hai di tích còn lại là tượng Nguyên phi Ỷ Lan và vua Lý Nhân Tông. Cả chùa và đền mới được xây dựng từ năm 1996 nhờ sự đóng góp của người dân địa phương.
Dân gian đã lưu truyền một câu ca về sự bề thế của chùa Dạm:
- 'Mười rằm trăng náu,
- mười sáu trăng treo,
- mười bảy phẩy giường chiếu,
- mười tám đóng cửa chùa Dạm
- mười chín bịn rịn
- hai mươi giấc tốt
- hai mốt nửa đêm...'
Câu ca này phản ánh thời điểm trăng mọc. 'Mười tám đóng cửa chùa Dạm' có nghĩa là vào ngày mười tám trăng mọc, chùa Dạm sẽ đóng cửa.
Lễ hội chùa Dạm tổ chức vào ngày mùng 8 tháng 9 âm lịch, các làng quanh chùa tưng bừng mở hội và có tục rước kiệu thành hoàng làng lên chùa để kính viếng Thánh Mẫu hoặc vua bà Ỷ Lan.
Địa hình và kiến trúc
Địa hình
Khu vực Nam Sơn nổi bật với dãy núi Dạm, còn gọi là Đại Lãm Sơn, nhô lên giữa các cánh đồng, ao hồ, sông ngòi, và bờ bãi, tạo nên một cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp. Các làng nằm quanh chân núi, được gọi là các 'làng Dạm', bao gồm Triều Thôn, Sơn Trung, Tự Thôn, và Môn Tự Thái Bảo.
Kiến trúc
Khi so sánh quy mô của chùa Dạm với chùa Phật Tích, người ta cho rằng chùa Dạm lớn hơn nhiều. Điều này là do chùa Dạm được xây dựng sau và đã tiếp thu kinh nghiệm từ chùa Phật Tích. Chùa Dạm chiếm diện tích hơn hai mẫu Bắc Bộ (khoảng 7.200 m²), với bốn cấp nền cao dần, kéo dài 120 m theo triền dốc của núi Dạm, và mặt nền rộng 70 mét.
Các cấp nền của chùa đều được xây dựng với đá chống xói lở, có chân hơi choãi, nghiêng khoảng 70 độ và cao từ 5 đến 6 mét. Đường xuống từng cấp của chùa được xây dựng bằng 25 bậc đá. Đá được khai thác tại chỗ, được đẽo gọt vuông vắn như các viên gạch dài rộng khoảng 50 cm - 60 cm. Các bậc thềm nối các tầng nền được lát đá, trên nền có gạch ngói thời Lý với hoa văn rồng, phượng, sen dây, và cúc dây. Các chân cột đá kích thước 0,75 m x 0,75 m được chạm nổi họa tiết cánh sen rất tinh xảo.
Lên cấp nền đầu tiên, được dân địa phương gọi là Bãi Hội, khách vào bằng một lối cửa, với tầng bậc cao và khoang bậc rộng 16 m.
Cấp nền thứ hai có ba lối vào hẹp hơn và tầng bậc thấp hơn. Cấp nền thứ ba và thứ tư chỉ có hai lối vào hẹp. Kè đá ở cấp nền thứ hai là nền chính của chùa, trên đá có chạm hoa văn sóng nước với các họa tiết to và nổi khối do chạm sâu. Trên tầng nền này, giữa ba lối cửa bên phải chùa có một khu đất vuông cạnh 7 m, cao 2 m, được kè đá với hoa văn sóng nước thời Lý.
Trên nền thứ hai của khu đất này, có một tấm bia đặt trên lưng rùa. Thân bia cao 1,5 m và rộng 1 m, nhưng mặt bia đã bị mòn, chỉ còn hai chữ '信施' (tín thí) rõ ràng ở mặt sau. Diềm bia có hoa văn dây leo, có thể được khắc vào khoảng thế kỷ 16. Đối diện với khu đất vuông qua lối cửa giữa, bên trái có một khu đất nổi hình tròn, đường kính khoảng 4,5 m, cao 1 m, cũng được kè đá và chạm hoa văn sóng nước thời Lý.
Trên khu đất tròn này, có một cột đá lớn nguyên khối, không tính phần chôn sâu, cao gần 5 m. Cột được cấu tạo từ hai khối, với khối dưới hình vuông và khối trên hình trụ. Khối vuông có kích thước cạnh 1,4 m và 1,6 m, còn khối trụ có đường kính khoảng 1,3 m. Phần dưới của trụ tròn được chạm nổi đôi rồng phong cách thời Lý, vươn cao chầu vào viên ngọc sáng, thân quấn quanh cột và đuôi ngoắc vào nhau. Rồng có mào lửa, bờm như cờ đuôi nheo bay lướt, thân tròn lẳn uốn khúc, chân chim năm móng, nổi bật giữa hoa văn phụ tinh xảo.
Cột đá chùa Dạm là những tác phẩm kiến trúc độc đáo và hoành tráng, thu hút cả từ xa lẫn gần. Một số nhà nghiên cứu cho rằng những cột đá này biểu trưng cho sinh thực khí Linga và Yoni đã được Việt hóa, với mong ước mưa thuận gió hòa và đời sống ấm no thịnh vượng.
Nền thứ hai còn có giếng Bống, nơi truyền thuyết kể rằng cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám đã nuôi cá bống ở đây.
Nền của các tầng ba và bốn có dấu tích của chùa và đền thờ cô Tấm cùng Nguyên phi Ỷ Lan. Tại đây còn tồn tại một tấm bia đá nhỏ khắc năm Chính Hòa thứ 17 thời Lê (1696), cao 0,65 m và rộng 1,4 m. Bia 'Đại Lãm Thần Quang tự tân tạo Hộ pháp' ghi nhận trước đây chùa chưa có Hộ pháp và hàng nghìn người đã đóng góp công sức để tu bổ chùa và dựng thêm tượng.
Tại di tích chùa Dạm, các nhà khảo cổ đã phát hiện phần đầu của tượng đá Kim Cương. Những chân đế cột đá lớn với hoa văn tinh xảo từ thời Lý còn sót lại cùng nhiều mảnh đất nung hình con vịt, con rồng, hoa lá... cũng được tìm thấy.
Bảo tồn
Với những giá trị lịch sử và nghệ thuật nổi bật, đền và chùa Dạm, thờ cô Tấm và Nguyên phi Ỷ Lan, đã được Bộ Văn hóa Thông tin nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận là di tích lịch sử văn hóa từ năm 1962.
Hiện tại, đền chùa Dạm đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Một số công trình do người dân địa phương tự vận động và đóng góp để xây dựng mới vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu phục hồi và bảo tồn cho di tích đặc biệt này.
Ghi chú
- Khám phá hình ảnh chùa Dạm: Một kỳ quan giờ đã thành phế tích? Nguyễn Hữu Bắc
- Đền và chùa Dạm tại Quế Võ Lưu trữ ngày 12 tháng 8 năm 2010 tại Wayback Machine
- Chùa Dạm - Một kỳ quan thời Lý Lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2010 tại Wayback Machine
- Di tích lịch sử văn hoá quốc gia chùa Dạm đang bị xuống cấp Lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2010 tại Wayback Machine
- Kỳ quan chùa Dạm đã trở thành phế tích? Nguyễn Hữu Bắc
- Nỗi lòng về chùa Dạm, Chu Minh Khôi Lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2009 tại Wayback Machine