

Chùa Hà (Thánh Đức tự) | |
---|---|
Vị trí | |
Quốc gia | Việt Nam |
Địa chỉ | 86 phố Chùa Hà, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. |
Thông tin | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Tông phái | Giáo hội Phật giáo Việt Nam |
Khởi lập | Thời vua Lý Thánh Tông |
Quản lý | Giáo hội Phật giáo Việt Nam |
Cổng thông tin Phật giáo | |
Chùa Hà (Chữ Hán: 河寺) còn được biết đến với tên chữ là Thánh Đức tự (Chữ Hán: 聖德寺). Cùng với Đình Bối Hà, chùa Hà tạo thành một quần thể di tích Đình - Chùa Hà, nằm trên khu vực xưa thuộc xóm Hà (đối diện qua đường Cầu Giấy) - thôn Trung - xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, hiện tại là số 86 phố Chùa Hà, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Chùa Hà và chùa Duyên Ninh là hai ngôi chùa nổi tiếng cầu duyên ở miền Bắc.
Lịch sử
Truyền thuyết thứ nhất kể rằng vào thời Lý, vùng Dịch Vọng đã nổi tiếng với nhiều danh thắng. Vua Lý Thánh Tông (trị vì 1054 - 1072), khi 42 tuổi vẫn chưa có con, đã cầu tự tại một ngôi chùa và sinh ra Thái tử Lý Càn Đức (Lý Nhân Tông). Ngôi chùa này được gọi là chùa Thánh Chúa để kỷ niệm sự kiện này. Trên đường đi, vua còn ghé thăm một ngôi chùa khác và ban tiền để trùng tu, nên chùa này còn được gọi là Thánh Đức tự. Vua Lý Thánh Tông qua đời đột ngột ở tuổi 50, thái tử Càn Đức lên ngôi khi mới 7 tuổi, trở thành Lý Nhân Tông.
Truyền thuyết thứ hai cho rằng chùa Hà được xây dựng để vua Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) bày tỏ lòng biết ơn các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt, những người đã giúp vua phế truất Lê Nghi Dân và đưa vua lên ngôi vào năm 1460.
Chùa Thánh Đức đã trải qua nhiều lần bị phá hủy do chiến tranh. Vào năm 1680, chùa vẫn chỉ có mái lợp lá và tường gạch vồ, vì thế người dân gọi là chùa Vồi. Thời vua Lê Hy Tông (1675-1705), hai người từ làng Thổ Hà tỉnh Bắc Giang đến sinh sống tại chùa để buôn bán đồ gốm sứ. Nhờ làm ăn phát đạt, họ đã cùng với người dân địa phương góp công xây dựng lại chùa bằng gạch ngói vào năm Chính Hòa (1680). Từ đó, hai làng Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa và đặt tên cho xóm có chùa là Bối Hà và chùa được gọi là chùa Hà. Vào các ngày lễ kỵ hàng tháng và hàng năm, người dân hai xóm cử đoàn đại biểu đến thăm nhau. Diện mạo hiện tại của chùa là kết quả của lần trùng tu lớn đó và các lần tu sửa sau này.
Từ năm 1995 đến 2003, phường Dịch Vọng và ban quản lý di tích đã tiến hành nâng cấp và xây dựng lại chùa Hà và đình Bối Hà, làm cho chúng trở nên khang trang và bề thế hơn. Tam quan của chùa được bảo tồn nguyên vẹn.
Kiến trúc
Chùa được quy hoạch với các công trình kiến trúc tập trung trong một không gian rộng rãi và thoáng đãng. Cổng Tam quan ở phía ngoài được xây dựng hai tầng với hệ thống cầu thang ở bên trái. Tầng trên được thiết kế theo kiểu chồng diêm, với mái thượng được trang trí bằng hình mặt trời lửa đặt trên hình hổ phù, hai đầu kìm được trang trí bằng hình rồng uốn lượn, miệng ngậm bờ nóc và mái được lợp giả ngói ống. Tầng dưới chia thành ba gian, với 12 cột trụ nổi bật trên tường. Tam quan có ba vòm cửa, cửa giữa rộng hơn (Ảnh 1).
Tầng hai của Tam quan treo một chuông đồng Thánh Đức tự chung có niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799), là di vật từ thời Tây Sơn vẫn được bảo quản nguyên vẹn. Chuông cao 1m20, chu vi đáy 1m80, được đúc với kỹ thuật tinh xảo. Phần trên của chuông có bốn múi với văn khắc, phần dưới được trang trí bằng tứ linh: long, ly, quy, phượng cách điệu và sống động. Trên chuông còn có hai con bồ lao đầu nhìn về hai phía, bốn chân gắn chặt vào chuông (Ảnh 2).




Sau cổng Tam quan là khu vườn xanh tươi, hồ nước hình bán nguyệt, cây đa và sân chùa (Ảnh 3). Bên hồ nước là bia đá bốn mặt Thánh Đức tự bi mới được phục chế gần đây. Ba mặt bia khắc chữ Hán theo tài liệu lưu tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán nôm, mặt còn lại khắc chữ quốc ngữ. Bia này được dựng vào năm Chính Hòa thứ 16 (1695), do Tri huyện Nguyễn Đình Trạch soạn văn bia (Ảnh 4). Trước cửa chùa bên phải đặt 18 tấm bia hậu ghi lại việc tu sửa và gửi hậu tại chùa vào cuối thời Nguyễn (Ảnh 5).
Chùa Hà hướng về phía tây, với kiến trúc chính kiểu chữ Đinh bao gồm Tiền đường và Thượng điện, tam bảo năm gian rộng. Phật điện của chùa được tổ chức theo nhiều lớp. Lớp cao nhất có ba pho Tam thế thường trụ diệu pháp thân, tượng trưng cho Đức Phật ở hiện tại, quá khứ và tương lai. Lớp thứ hai gồm tượng A Di Đà lớn, Quan Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát. Dưới tượng A Di Đà là tượng A Nan Đà và Đức Ông. Đức Ông chùa Hà rất linh thiêng, người dân thường nói Đức Ông chùa Hà, Đức Bà chùa Hương. Bên ngoài chính điện, tiếp giáp với đại bái, là tượng Thích Ca sơ sinh (Ảnh 6). Tượng nổi bật trong nhà bái đường là Thiên Tướng Hộ pháp cao lớn mặc áo giáp vàng ngồi trên con sấu. Hai bên đầu hồi đặt 8 vị Thần Vương Hộ pháp.
Phía sau chính điện của chùa là Điện Mẫu, bao gồm phần phía trước là phương đình và phần phía sau là Thần điện. Trong phương đình có đặt đỉnh hương và đôi hạc lớn (Ảnh 7). Phía sau phương đình là nhà bái đường 5 gian theo kiểu kiến trúc cổ. Gian giữa đặt tượng Mẫu Thượng Thiên trong trang phục đỏ, bên trái là tượng Mẫu Thượng Ngàn trong trang phục xanh, bên phải là tượng Mẫu Thủy trong trang phục trắng. Ngoài ra, còn có các tượng ông hoàng, bà chúa và cô cậu khác (Ảnh 8). Đặc biệt, bức phù điêu Bát Tiên treo bên trái hồi rất sống động. Bàn thờ dưới cùng của Điện Mẫu là Ngũ Hổ thần quan, hay còn gọi là Quan Năm Dinh, biểu tượng bằng 5 mãnh hổ với các màu sắc khác nhau.
Trước đây, chùa Hà còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ bằng gốm như bát hương, chĩnh, ang, vại đựng nước, thể hiện lòng tôn kính và tín ngưỡng của người Thổ Hà xứ Kinh Bắc xưa. Hiện tại (năm 2009), các hiện vật này đã được thay thế bằng đồ đồng có khắc tên người công đức và vòi nước máy thay cho đồ sành đựng nước. Chùa không chỉ là nơi cầu duyên mà còn là điểm du lịch cho những ai chưa đặt chân đến Hà Nội, đặc biệt là đến chùa.




Đình Bối Hà
Lịch sử
Đình Bối Hà thờ vị Thành Hoàng là Triệu Chí Thành, con trai của Triệu Xương và bà Lý Thị Thích, người ở Chu Diên, Thái Bình (hiện tại là huyện Mê Linh, Hà Nội). Vào ngày 11 tháng 1, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, có tướng mạo đặc biệt. Khi Triệu Việt Vương đóng đô tại Từ Liêm và rút về đầm Dạ Trạch để chiến đấu với quân Trần Bá Tiên, ông được thần Chử Đồng Tử ban cho móng rồng để chế tạo nỏ thần. Triệu Chí Thành chế tạo nỏ với khả năng bắn bách phát bách trúng, tiêu diệt hàng trăm quân địch, khiến tướng Dương Sằn bị bắn chết và quân Lương đại bại, rút về Bắc quốc năm 550.
Sau khi chiến thắng quân Lương, Triệu Chí Thành bị bệnh nặng. Triệu Việt Vương đến thăm và hỏi: Ngài có điều gì cần trẫm đáp ứng không? Triệu Chí Thành đáp: Thần không có điều gì yêu cầu, chỉ mong bệ hạ cho cờ tướng lệnh mà thần đã nhận được được tung lên trời tại Thạch Bàn, Long Đầu, để cờ bay đến đâu thì nơi đó lập đền thờ và miễn thuế lao dịch cho nhân dân. Triệu Việt Vương đồng ý, ngày 12 tháng 8 năm đó, cờ được tung lên trời và Triệu Chí Thành cũng qua đời. Cờ bay đến Dịch Vọng Trung, và vua đã cho lập đền thờ Triệu Chí Thành tại đó, phong là Đại Vương. Đền thờ Triệu Chí Thành hiện nay là đình Thọ Tháp và đình Bối Hà tại thôn Dịch Vọng Trung. Đình Bối Hà được xây dựng từ năm 550 dưới triều Triệu Việt Vương.
Do tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, đình Bối Hà đã được người dân làng Bối Hà và các tín đồ xây dựng lại với kiến trúc hoành tráng và nội thất trang nghiêm, thể hiện sự tôn trọng và tín ngưỡng của cộng đồng.
Kiến trúc
Đình Bối Hà được thiết kế theo kiểu chữ Đinh và hướng về phía Tây, phù hợp với quy tắc âm dương: mặt trước rộng rãi, mặt sau yên tĩnh; phần trước nhộn nhịp, phần sau tĩnh lặng. Phía ngoài có thiên trụ với hình phượng hoàng chầu bốn phương và hổ phù, nổi bật với câu đối: Đền miếu huy hoàng, nhân kiệt địa linh thiên cổ mãi; Uy thần vời vợi, người khỏe của lắm vạn năm dài (Ảnh 9).
Bên cạnh thiên trụ là một nghi môn nhỏ với tên gọi Bối Hà miếu, có thể là tên nguyên thủy của đình Bối Hà. Đi qua nghi môn, bạn sẽ vào sân đình, nơi có thiên trụ thứ hai ngăn cách sân lớn và sân nhỏ, với đỉnh thiên trụ được chạm khắc đôi nghê. Trên thiên trụ có đôi câu đối: Thiên trụ vững vàng, đối diện Tản Viên ngời thắng cảnh; Đền thần vòi vọi, chảy hoài Tô Lịch tỏ danh lam (Ảnh 10). Khi lên sân nhỏ, bạn sẽ thấy nóc đình được trang trí với đôi rồng chầu mặt trời, với đầu bờ nóc được giữ chặt bởi hai đầu rồng.
Đi qua hàng cửa bức bàn mài nhẵn là vào đại bái, nơi có những cột thiết mộc vững chắc, treo các câu đối trên nền gấm chữ đen. Nổi bật ở gian giữa là bức hoành phi Thánh cung vạn tuế, dưới là câu đối kể về Triệu Chí Thành: Xem thế non sông lạ, Long Đỗ linh thiêng xây điện miếu; Dẹp Lương lập công to, Diên đô cờ phóng dựng đền thờ (Ảnh 11).
Về đồ tế khí, ngoài các bát bửu, lư hương đồng, long ngai, bài vị, đình Bối Hà còn có đôi hạc đứng vững chắc trên lưng rùa.




Du lịch và lễ hội
Chùa Hà được công nhận là di tích lịch sử văn hóa từ năm 1996. Hiện tại, đình và chùa Hà thường xuyên tổ chức các lễ hội đặc sắc:
- Ngày 11 tháng Giêng âm lịch, chúng ta tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của Thành hoàng Triệu Chí Thành.
- Ngày 12 tháng Tám âm lịch là ngày tưởng niệm sự qua đời của Thành hoàng.
- Ngày 12 tháng Hai âm lịch, người dân tụ tập cầu xin mưa thuận gió hòa, sức khỏe dồi dào. Trong dịp lễ hội, thường diễn ra các hoạt động như cờ người, đu, kéo co, hát cửa đình, múa sư tử...
Đình và chùa Hà ngày càng thu hút đông đảo khách du lịch gần xa. Đặc biệt vào ngày mùng 1 và 15 âm lịch hàng tháng, nơi đây trở nên đông đúc với người đến dâng hương, cầu nguyện cho Phật và Thánh, khói hương bao phủ khắp nơi (Ảnh 3, Ảnh 12). Người dân cầu mong sự bình an, phúc lộc từ Phật và Thánh. Đặc biệt, nhiều người đến chùa Hà để cầu duyên, những đôi yêu nhau mong kết thành vợ chồng, còn những người chưa có bạn đời thì cầu tìm được người yêu nhanh chóng.
- Di tích lịch sử văn hóa Đình - Chùa Hà. Ban quản lý di tích Đình - Chùa Hà, 2007
Liên kết ngoài
- Chùa Hà - di tích lịch sử và cách mạng. Hùng Cương