Sư tử | |
---|---|
Khoảng thời gian tồn tại: Pleistocene–Recent TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
↓ | |
Một con sư tử đực Nam Phi (P. l. melanochaita), chụp tại Okonjima, Namibia | |
Một con sư tử cái ở Okonjima | |
Tình trạng bảo tồn
| |
Sắp nguy cấp (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
nhánh: | Mammaliaformes |
Lớp: | Mammalia |
Bộ: | Carnivora |
Phân bộ: | Feliformia |
Họ: | Felidae |
Chi: | Panthera |
Loài: | P. leo
|
Danh pháp hai phần | |
Panthera leo (Linnaeus, 1758) | |
Phân loài | |
xem mục Loài phụ ở dưới | |
Phân bố Panthera leo ở châu Phi và Á Âu trong quá khứ cũng như hiện tại | |
Phân bố sư tử ở Ấn Độ: rừng Gir và những vùng xung quanh đó tại Gujarat là nơi sinh sống cuối cùng của sư tử châu Á hoang dã | |
Các đồng nghĩa | |
Felis leo Linnaeus, 1758 |
Sư tử (Panthera leo) là một trong những loài đại miêu thuộc họ Mèo, chi Báo. Được xếp vào danh sách nguy cấp của IUCN từ năm 1996, số lượng sư tử ở châu Phi đã giảm khoảng 43% từ những năm đầu thập niên 1990. Trong văn hóa phương Tây, sư tử thường được gọi là 'chúa tể rừng xanh' (king of the jungle) hay 'vua của muôn thú' (king of beasts). Sư tử có sự khác biệt giới tính rõ rệt; con đực lớn hơn con cái với trọng lượng từ 150 đến 200 kg đối với con đực và 120 đến 182 kg (265 đến 400 lb) đối với con cái, với lực cắn lên đến 1000 PSI ở con đực trưởng thành, đứng thứ hai trong họ Mèo sau hổ Đông Bắc Á. Con đực dễ nhận diện nhờ bờm của chúng. Sư tử hoang sinh sống chủ yếu ở châu Phi hạ Sahara và một phần nhỏ ở châu Á (với quần thể còn sót lại ở vườn quốc gia Rừng Gir, Ấn Độ). Các phân loài sư tử đã tuyệt chủng từng sống ở Bắc Phi và Đông Nam Á. Cuối Pleistocene, khoảng 10.000 năm trước, sư tử là loài động vật có vú phân bố rộng thứ hai chỉ sau con người, sống ở hầu hết châu Phi, Á-Âu từ Tây Âu đến Ấn Độ, và châu Mỹ từ Yukon đến Peru. Hiện nay, sư tử là loài nguy cấp và đã được xếp vào danh sách dễ bị tổn thương của IUCN từ năm 1996, với sự suy giảm 43% số lượng ở châu Phi kể từ những năm 1990. Nhiều quần thể sư tử không được bảo vệ ngoài các khu vực bảo tồn. Nguyên nhân suy giảm chưa được làm rõ hoàn toàn, nhưng mất môi trường sống và xung đột với con người là những nguyên nhân chính.
Sư tử có tuổi thọ từ 10–14 năm trong môi trường tự nhiên, nhưng trong điều kiện nuôi nhốt có thể sống hơn 20 năm. Trong tự nhiên, con đực thường không sống quá 10 năm do phải thường xuyên chiến đấu với các con đực khác. Sư tử thường sống ở xavan và thảo nguyên thay vì những khu rừng rậm rạp. Khác với các loài họ Mèo khác, sư tử có lối sống xã hội theo bầy đàn. Một đàn sư tử bao gồm con cái, con non và một số con đực trưởng thành. Các nhóm sư tử cái thường săn bắn cùng nhau, chủ yếu là các loài động vật móng guốc lớn. Chúng là loài động vật ăn thịt hàng đầu và chủ yếu ăn thịt tươi, mặc dù cũng ăn xác thối khi có cơ hội. Một số sư tử đã được biết đến có thể tấn công người, tuy nhiên đây không phải là điều phổ biến.
Sư tử, một trong những biểu tượng động vật phổ biến nhất trong văn hóa nhân loại, đã xuất hiện rộng rãi trong các tác phẩm điêu khắc, tranh vẽ, quốc kỳ và các bộ phim cũng như văn học hiện đại. Được nuôi nhốt từ thời Đế quốc La Mã, sư tử đã trở thành một loài được săn đón để triển lãm tại các vườn bách thú toàn cầu kể từ thế kỷ 18. Các mô tả văn hóa về sư tử rất phong phú, với các hình khắc và tranh vẽ từ các hang động Lascaux và Chauvet ở Pháp từ 17.000 năm trước, và sự xuất hiện của sư tử đã được ghi nhận trong hầu hết các nền văn hóa cổ đại và trung cổ ở những khu vực mà sư tử từng sinh sống và hiện tại.
Nguồn gốc tên gọi
Danh từ 'sư tử' trong tiếng Việt là phiên âm từ Hán-Việt của hai chữ 獅子 (Bính âm: shīzi) trong tiếng Quan thoại phổ thông, còn được gọi là con sư (獅). Trong tiếng Trung cổ, từ này được đọc là *sri theo Thượng Phương (2003). Có khả năng, người Trung Quốc đã vay mượn tên gọi sư tử từ người Ba Tư, so sánh với từ sư tử trong tiếng Ba Tư cổ điển là شیر (šêr).
Danh từ 'lion' (sư tử) trong tiếng Anh là từ vay mượn từ leo trong tiếng Latin và λέων (leon) trong tiếng Hy Lạp cổ đại. Từ אַריֵה lavi trong tiếng Hebrew cũng có thể liên quan.
Phân loại
Felis leo là tên khoa học do Carl Linnaeus đặt vào năm 1758, mô tả con sư tử trong tác phẩm Systema Naturae. Tên chi Panthera được nhà tự nhiên học người Đức Lorenz Oken đặt vào năm 1816. Từ giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 20, có 26 mẫu sư tử được mô tả và đề xuất làm phân loài, trong đó 11 mẫu được công nhận là hợp lệ vào năm 2005. Những phân loài này được phân biệt dựa trên hình dáng, kích thước và màu sắc của bờm. Do các đặc điểm này có sự khác biệt lớn giữa các cá thể, nhiều phân loài có thể không thực sự tồn tại, đặc biệt là vì chúng thường dựa trên tài liệu bảo tàng với các đặc điểm hình thái 'nổi bật nhưng hiếm thấy'.
Dựa trên hình thái của 58 hộp sọ sư tử từ ba bảo tàng châu Âu, các phân loài krugeri, nubica, Persica và senegalensis được đánh giá là khác biệt, trong khi bleyenberghi chồng chéo với senegalensis và krugeri. Persica - sư tử châu Á là phân loài đặc biệt nhất, và sư tử Cape có nhiều đặc điểm liên kết hơn với sư tử châu Á so với các sư tử vùng cận Sahara khác.
Họ hàng gần nhất của sư tử là các loài khác trong chi Panthera: hổ, báo tuyết, báo đốm và báo hoa mai. Các nghiên cứu phát sinh gen công bố vào năm 2006 và 2009 cho thấy báo đốm và sư tử thuộc về một nhóm đã phân tách khoảng 2,06 triệu năm trước. Các nghiên cứu tiếp theo công bố vào năm 2010 và 2011 chỉ ra rằng báo hoa mai và sư tử thuộc cùng một nhóm, phân tách từ 1,95 đến 3,10 triệu năm trước. Tuy nhiên, sự lai tạo giữa sư tử và báo tuyết có thể tiếp tục đến khoảng 2,1 triệu năm trước.
Phát sinh loài
Các nghiên cứu về phát sinh gen sớm tập trung vào sư tử Đông và Nam Phi, cho thấy chúng có thể chia thành hai nhánh chính: một ở phía tây và một ở phía đông của Đới tách giãn Đông Phi. Sư tử ở miền đông Kenya có mối liên hệ di truyền gần gũi hơn với sư tử ở Nam Phi so với sư tử ở Công viên quốc gia Bologare ở miền tây Kenya. Một nghiên cứu tiếp theo sử dụng mẫu mô và xương của 32 sư tử từ bảo tàng, cho thấy sư tử hình thành ba nhóm chính: châu Á và Bắc Phi, Trung Phi, và Nam Phi. Các nghiên cứu sau này phân tích tới 480 mẫu sư tử từ 22 quốc gia, chỉ ra hai nhóm sư tử tiến hóa chính.
53 mẫu sư tử, bao gồm cả hoang dã và nuôi nhốt, từ 15 quốc gia đã được phân tích di truyền. Kết quả cho thấy sự đa dạng di truyền giữa các mẫu từ châu Á, Tây và Trung Phi, trong khi các mẫu từ Đông và Nam Phi có nhiều đột biến hỗ trợ nhóm này có lịch sử tiến hóa lâu dài hơn. Các nghiên cứu sau đó cho thấy sư tử đã phân chia thành các dòng dõi phía bắc (Bắc - Tây Phi - châu Á) và miền nam (Đông - Nam Phi) khoảng 245.000 năm trước. Sự tuyệt chủng của sư tử ở miền nam châu Âu, Bắc Phi và Trung Đông đã làm gián đoạn dòng gen giữa sư tử châu Á và châu Phi.
Hơn 190 mẫu sư tử đã được thu thập cho nghiên cứu di truyền, bao gồm tám mẫu hoang dã từ Cao nguyên Ethiopia. Ba mẫu từ Công viên Quốc gia Vùng Ogaden, Gambela, và Bale, cùng với các mẫu từ Chad và Cameroon. Năm mẫu từ các khu vực khác ở Ethiopia có sự liên kết mạnh với các mẫu sư tử từ Đông Phi. Do đó, các nhà khoa học cho rằng Ethiopia đóng vai trò là khu vực giao thoa giữa hai phân loài.
Phân loài đã biến mất
Những phân loài sư tử hoặc các loài họ hàng của sư tử hiện đại đã tồn tại trong thời kỳ tiền sử bao gồm:
- P. leo fossilis, P. fossilis hoặc P. spelaea fossilis, với các mảnh xương được khai quật tại Đức, Vương quốc Anh, Ý và Cộng hòa Séc, ước tính có tuổi từ 680.000 đến 600.000 năm. Loài này lớn hơn so với sư tử hiện tại.
- P. l. spelaea hoặc P. spelaea, với các mảnh xương được tìm thấy ở châu Âu, Bắc Á, Canada và Alaska, được xem là dạng phát triển của P. fossilis. Loài này, được gọi là sư tử hang động, có thể đã tuyệt chủng khoảng từ 14.900 đến 11.900 năm trước. Những mảnh xương lâu đời nhất được ước tính từ 109.000 đến 57.000 năm tuổi. Nó xuất hiện trong tranh hang động, chạm khắc ngà voi, và các bức tượng đất sét, cho thấy những đặc điểm như tai nhô ra, đuôi búi và sọc mờ như hổ. Một số mẫu vật còn có dấu vết xù xì quanh cổ.
- P. l. atrox hoặc P. atrox, còn gọi là sư tử Mỹ hoặc sư tử hang động Mỹ, sống ở châu Mỹ từ Canada đến có thể là Patagonia trong Kỷ nguyên Pleistocene. Đây là một trong những phân loài lớn nhất thuộc họ Mèo, với chiều dài từ đầu đến cơ thể ước tính từ 1,6m đến 2,5m và chiều cao khoảng 1,2m ở vai. Hóa thạch gần đây nhất có niên đại khoảng 11.355 ± 55 năm trước từ Edmonton.
- P. l. Sinhaleyus, sống ở Sri Lanka vào cuối kỷ Pleistocene và được cho là đã tuyệt chủng khoảng 39.000 năm trước. Phân loài này được mô tả bởi Deraniyagala vào năm 1939 dựa trên một xác hóa thạch tìm thấy trong hang Batadomba.
Phân loài chưa được xác nhận
- P. l. youngi hoặc Panthera youngi, đã phát triển mạnh mẽ từ khoảng 350.000 năm trước. Mối quan hệ của nó với các phân loài sư tử hiện tại vẫn còn chưa được làm rõ; có thể đây là một loài hoàn toàn khác biệt.
- P. l. mesopotamica được biết đến qua một bức phù điêu từ thời kỳ Tân-Assyria, khoảng từ năm 1000 trước Công nguyên đến năm 600 trước Công nguyên, ở khu vực Lưỡng Hà cổ đại.
- P. l. europaea được đặt tên cho nhóm sư tử khai quật ở Nam Âu từ giữa thời kỳ đồ đá mới đến thời kỳ đồ sắt sớm.
- P. l. maculatus, còn gọi là Marozi hoặc sư tử đốm, đôi khi được coi là một phân loài độc lập. Nếu không phải chỉ là những cá thể có màu sắc khác thường, nó có thể đã tuyệt chủng từ năm 1931. Cũng có giả thuyết cho rằng đây là một con báo đốm tự nhiên, gọi là leopon, mặc dù đây là giả thuyết ít khả thi hơn.
Phân loài hiện còn sống
Sự khác biệt chủ yếu giữa các phân loài sư tử thường thể hiện qua kích thước, hình dạng bờm và khu vực sinh sống. Một số phân loài còn có những đặc điểm thích nghi với môi trường sống cụ thể; chẳng hạn, sư tử Kalahari có khả năng tồn tại trong điều kiện khô hạn. Tất cả các phân loài đều sống ở châu Phi, trừ sư tử châu Á là phân loài duy nhất không thuộc châu Phi.
- Panthera leo azandica - sư tử Đông Bắc Congo.
- Panthera leo bleyenberghi - sư tử Katanga.
- Panthera leo hollisteri - sư tử Congo.
- Panthera leo krugeri - sư tử Nam Phi.
- Panthera leo leo - sư tử Barbary, từng là phân loài sư tử lớn nhất, sinh sống từ Maroc đến Ai Cập. Con sư tử Barbary cuối cùng trong tự nhiên bị giết tại Maroc vào năm 1922 do nạn săn bắn quá mức. Một số cá thể vẫn tồn tại trong điều kiện nuôi nhốt, và các nỗ lực đang được thực hiện để tăng cường số lượng của chúng. Các hoàng đế La Mã đã từng nuôi sư tử Barbary để tham gia các cuộc chiến đấu trường. Các nhà quý tộc La Mã như Sulla, Pompey và Julius Caesar thường xuyên ra lệnh giết hàng trăm con sư tử Barbary trong một lần. Hiện nay, số lượng sư tử Barbary còn lại trên thế giới chỉ khoảng 1.400 con (khoảng 900 con ở Trung - Tây Phi và 500 con ở Ấn Độ).
- Panthera leo massaicus - sư tử Massai.
- Panthera leo melanochaitus - sư tử Hảo Vọng; trước đây được cho là đã tuyệt chủng vào năm 1860. Hiện nay, sư tử Hảo Vọng còn khoảng 17.000-19.000 con ở Đông và Nam Phi.
- Panthera leo nubica - sư tử Đông Phi.
- Panthera leo persica - sư tử châu Á. Hiện tại, khoảng 500 con đang sống ở khu bảo tồn Gir thuộc bang Gujarat, Ấn Độ. Trước đây, chúng phân bố rộng từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Bangladesh, nhưng các bầy đàn lớn và hoạt động ban ngày đã khiến chúng dễ bị săn bắn hơn so với hổ và báo hoa mai.
- Panthera leo roosevelti - sư tử Abyssinia.
- Panthera leo senegalensis - sư tử Tây Phi hay sư tử Sénégal.
- Panthera leo somaliensis - sư tử Somalia.
- Panthera leo verneyi - sư tử Kalahari.
Phân loài | Mô tả | Hình ảnh |
---|---|---|
Sư tử Barbary (P. l. leo) (Linnaeus, 1758), syn. P. l. nubica (de Blainville, 1843), P. l. somaliensis (Noack, 1891) | Đây là phân loài sư tử phân bố ở Bắc Phi đã tuyệt chủng ở nhiều nơi. Ở Bắc Phi, sư tử bị tuyệt chủng trong khu vực hoang dã do săn bắn quá mức; con sư tử Barbary được biết đến cuối cùng đã bị giết ở Morocco vào năm 1942. Các nhóm sư tử nhỏ có thể sống sót cho đến những năm 1960.
Một vài con sư tử bị nuôi nhốt có khả năng đến từ Bắc Phi, đặc biệt là 90 cá thể xuất phát từ bộ sưu tập Hoàng gia Ma Rốc tại Sở thú Rabat. Nó liên quan chặt chẽ về mặt di truyền với sư tử châu Á hơn là sư tử ở Đông và Nam Phi. Nó có liên quan chặt chẽ về mặt di truyền với sư tử châu Á hơn là sư tử ở Đông và Nam Phi. Tại Algérie, Ai Cập, Libya, Maroc và Tunisia, sư tử bị tuyệt chủng theo vùng. |
|
Sư tử châu Á (P. l. leo) formerly (P. l. persica) (Meyer, 1826) | Ngày nay, quần thể sư tử châu Á chỉ sống sót ở bang Gujarat của Ấn Độ và được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng. Cho đến cuối thế kỷ 19, phạm vi lịch sử của nó bao gồm miền đông Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, trước đây là tỉnh Sind đến miền Trung Ấn Độ.
Quần thể ở Ấn Độ đã phục hồi từ bờ vực tuyệt chủng lên đến 411 cá thể trong năm 2010. Nó được bảo vệ trong Vườn quốc gia Gir Forest, và bốn khu vực được bảo vệ trong khu vực. Kết quả của các nghiên cứu thực vật học cho thấy tổ tiên của nó tách ra khỏi sư tử ở châu Phi cận Sahara giữa 203 và 74 nghìn năm trước. Thân nhân gần nhất của nó là sư tử Bắc Phi và Tây Phi. |
|
Sư tử Tây Phi (P. l. leo)formerly (P. l. senegalensis) (Meyer, 1826), syn. P. l. kamptzi (Matschie, 1900) | Mẫu vật của loài này có nguồn gốc ở Senegal.
Quần thể này đã được liệt kê là loài cực kỳ nguy cấp vào năm 2015 và còn sống sót ở Tây Phi tại Senegal, Burkina Faso, Benin đến Niger và Nigeria. Nó có thể đã tuyệt chủng ở Mauritanie, Mali, Ghana, Guinea, Bờ Biển Ngà, Gambia, Guinea-Bissau, Sierra Leone và Togo. |
|
Sư tử Trung Phi (P. l. leo) formerly P. l. azandica (Allen, 1924) | Mẫu vật này là một con sư tử đực từ đông bắc Congo.
Quần thể này sống ở Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad và Cộng hòa Dân chủ Congo. |
|
Sư tử Đông Bắc châu Phi (Linnaeus, 1758; Smith, 1842) | Sư tử ở miền bắc Kenya và Đông Bắc Châu Phi có sự kết hợp di truyền giữa quần thể Đông Phi (P. l. Melanochaita) và quần thể trung Phi (P. l. Leo).. | |
Sư tử Hảo vọng (P. l. melanochaita) (Smith, 1842) | Loại mẫu có nguồn gốc ở Mũi Hảo Vọng, Cộng hòa Nam Phi. Dân số sống ở tỉnh Cape và Natal, Nam Phi. | |
Sư tử Đông Phi (P. l. melanochaita), (P. l. leo) formerly P. l. massaica (Neumann, 1900), syn. P. l. sabakiensis (Lönnberg, 1910), P. l. roosevelti (Heller, 1914); P. l. nyanzae (Heller, 1914); P. l. hollisteri (Allen), 1924) P. l. webbiensis (Zukowsky, 1964) | Một số mẫu vật được mô tả từ các nước vùng Đông Phi.
Ở Đông Phi, quần thể sư tử sống ở Ethiopia, Kenya, Somalia, Nam Sudan, Tanzania và Uganda, nhưng đã bị tuyệt chủng ở Djibouti, Ai Cập và Eritrea. Vào năm 2015, bảy con sư tử từ Nam Phi đã được giới thiệu lại vào Vườn quốc gia Akagera của Rwanda. |
|
Sư tử Nam Phi (P. l. melanochaita) (P. l. leo) formerly P. l. bleyenberghi (Lönnberg, 1914), P. l. krugeri (Roberts, 1929), syn. P. l. vernayi (Roberts, 1948) | Một số mẫu vật đã được mô tả từ các nước vùng Nam Phi. Trọng lượng cơ thể ghi lại của các cá thể cho thấy rằng nó là nặng nhất của sư tử châu Phi hoang dã.
Ở Nam Phi, sư tử ở Namibia, Angola và miền bắc Botswana. Ở phần phía tây nam của Cộng hòa Dân chủ Congo, chúng được coi là tuyệt chủng theo vùng. |
Quá trình tiến hóa
Hóa thạch sư tử cổ nhất được xác định tìm thấy ở Hẻm núi Olduvai, Tanzania, có niên đại từ 1,4 đến 1,2 triệu năm trước. Từ Đông Phi, sư tử đã mở rộng ra toàn bộ lục địa, đến Bắc bán cầu và tiểu lục địa Ấn Độ với sự phát triển của các khu vực sinh sống mở.
Hóa thạch sư tử cổ nhất ở châu Âu được phát hiện gần Pakefield, Vương quốc Anh, khoảng 680.000 năm tuổi. Những hóa thạch ở rừng Bed Cromer cho thấy chúng có kích thước khổng lồ và thuộc về một dòng dõi di truyền biệt lập, khác biệt hoàn toàn với sư tử ở Châu Phi và Châu Á. Loài này phân bố rộng rãi trên toàn châu Âu, từ Siberia đến phía tây Alaska qua vùng đất Beringian. Sự hình thành của rừng rậm có thể đã làm giảm phạm vi của nó vào cuối kỷ Pleistocene muộn. Xương sư tử thường được tìm thấy trong các hang động từ thời kỳ Eppy, cho thấy sư tử hang động sống sót ở Balkans và Tiểu Á, và có thể kéo dài đến Ấn Độ. Các dấu tích hóa thạch sư tử cũng đã được phát hiện trong các trầm tích Pleistocene ở Tây Bengal.
Sư tử châu Mỹ xuất hiện khi một quần thể sư tử Beringian bị cô lập ở phía nam dải băng lục địa Bắc Mỹ cách đây khoảng 370.000 năm. Loài sư tử này lan rộng khắp Bắc Mỹ nhưng không xuất hiện ở phía đông bắc, có thể do các khu rừng taiga dày đặc trong khu vực. Nó từng được cho là đã tồn tại ở phía tây bắc Nam Mỹ như một phần của Giao lộ lớn của châu Mỹ. Tuy nhiên, hóa thạch được phát hiện trong các lớp hắc ín của Talara, Peru, sau đó được xác nhận là loài báo đốm lớn bất thường. Ngược lại, hóa thạch của một loài mèo lớn từ Pleistocene muộn ở miền nam Patagonia trước đây được xác định là một phân loài đã tuyệt chủng của báo đốm, Panthera onca mesembrina, sau đó được báo cáo là của một con sư tử. Cả sư tử hang động Á-Âu và sư tử châu Mỹ đều tuyệt chủng vào cuối kỷ băng hà cuối cùng mà không có hậu duệ ty thể ở các lục địa khác.
Các quần thể sư tử hiện nay dường như có nguồn gốc từ các quần thể tị nạn ở Đông và Nam Phi cách đây 324.000-169.000 năm và đã di cư đến các khu vực khác của Châu Phi và vào Châu Á khoảng 100.000 năm trước. Có vẻ như sư tử đã tuyệt chủng ở Bắc, Tây và Trung Phi khoảng 40.000-18.000 năm trước do biến đổi khí hậu khô cằn, và khi các khu vực này trở nên ẩm ướt hơn vào khoảng 15.000-11.000 năm trước, chúng đã được bổ sung bởi các quần thể tị nạn từ Trung Đông.
Giao phối giữa các loài
Sư tử đã được lai với hổ, thường là hổ Siberia và hổ Bengal, để tạo ra các giống lai gọi là 'sư hổ' (Liger) và 'hổ sư' (Tigon). Chúng cũng đã được lai với báo để tạo ra giống lai 'báo sư'.
Sư hổ là giống lai giữa sư tử đực và hổ cái. Vì không có gen ức chế từ mẹ hổ, gen kích thích tăng trưởng từ cha sư tử không bị hạn chế, khiến sư hổ phát triển lớn hơn nhiều so với bố mẹ của nó. Sư hổ mang đặc điểm thể chất và hành vi của cả hai loài bố mẹ; ví dụ, bộ lông của nó có sự kết hợp của đốm và sọc trên nền màu cát. Sư tử đực không thể sinh sản, nhưng con cái thường có khả năng sinh sản. Con đực có khoảng 50% khả năng có bờm, nhưng bờm này nhỏ hơn khoảng 50% so với bờm của sư tử thuần chủng. Sư hổ lớn hơn nhiều so với sư tử và hổ bình thường; chúng có thể dài tới 3,65 m và nặng đến 500 kg.
Hổ sư là kết quả của sự lai tạo giữa sư tử và hổ đực, và ít phổ biến hơn. Khác với sư hổ, hổ sư thường nhỏ hơn so với bố mẹ do ảnh hưởng của gen đối ứng.
Đặc điểm
Sư tử có cơ thể mạnh mẽ, ngực sâu với đầu ngắn và tròn, cùng với cổ và tai tròn. Màu lông của chúng biến đổi từ sáng đến xám bạc, nâu đỏ và nâu đậm. Phần bụng thường sáng hơn, và các con non có đốm đen trên cơ thể khi mới sinh. Những đốm này mờ dần khi sư tử trưởng thành, mặc dù vẫn còn rõ ở chân và bụng. Sư tử là loài duy nhất trong họ mèo có sự phân biệt giới tính rõ ràng về hình thái. Con đực có cơ bắp mạnh mẽ hơn, đầu rộng và bờm nổi bật, bao phủ phần lớn đầu, cổ, vai và ngực. Bờm thường có màu nâu, vàng, rỉ sét hoặc đen. Một đặc điểm nổi bật chung của cả con cái và con đực là phần cuối đuôi có màu tối; con đực có một chùm lông ở cuối đuôi. Một số sư tử còn có một 'cột sống' cứng khoảng 5 mm ở cuối đuôi, hình thành từ các xương đuôi hợp nhất. Sư tử là loài duy nhất trong họ mèo có lông đuôi, nhưng chức năng của nó vẫn chưa được rõ ràng. Chùm lông này không có khi sư tử mới sinh, nhưng bắt đầu phát triển từ 5 đến 7 tháng tuổi và trở nên dễ nhận biết hơn khi sư tử đạt 7 tháng tuổi.
Trong số các loài mèo hoang dã không phải lai tạo, sư tử chỉ được so sánh với hổ về chiều dài cơ thể và chiều cao ở vai. Sư tử có chiều dài cơ thể ngắn hơn một chút so với hổ, nhưng lại cao hơn ở vai. Hộp sọ của sư tử rất giống với của hổ, tuy nhiên phần trước thường thấp hơn và phẳng hơn, với một vùng hậu môn ngắn hơn và mũi mở rộng hơn so với hổ. Do sự biến đổi cấu trúc sọ giữa hai loài, cấu trúc hàm dưới thường là chỉ số tin cậy nhất để phân biệt loài. Kích thước và trọng lượng của sư tử trưởng thành có sự khác biệt rõ rệt tùy thuộc vào khu vực và môi trường sống. Dưới đây là thông số kích thước của một số cá thể lớn hơn trung bình ở Châu Phi và Ấn Độ:
Trung bình | Con cái | Con đực |
---|---|---|
Chiều dài | 140–175 cm (4 ft 7 in–5 ft 9 in) | 170–298 cm (5 ft 7 in–9 ft 9 in) |
Chiều dài đuôi | 70–100 cm (2 ft 4 in–3 ft 3 in) | 90–105 cm (2 ft 11 in–3 ft 5 in) |
Khối lượng | 120–182 kg (265–401 lb), 124,2–139,8 kg (274–308 lb) ở Nam Phi, 119,5 kg (263 lb) in East Africa, 110–120 kg (240–260 lb) ở Ấn Độ |
150–250 kg (330–550 lb), 187,5–193,3 kg (413–426 lb) ở Nam Phi, 174,9 kg (386 lb) ở Đông Phi, 160–190 kg (350–420 lb) ở Ấn Độ |
Bờm
Bờm của sư tử là đặc điểm dễ nhận biết nhất của chúng. Nó bắt đầu phát triển khi sư tử khoảng một tuổi và có màu sắc thay đổi theo thời gian; nghiên cứu cho thấy màu sắc và kích thước của bờm chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường như nhiệt độ trung bình. Chiều dài bờm thể hiện sự thành công trong các cuộc tranh chấp giữa các con đực; những cá thể có bờm tối màu thường có thời gian sinh sản dài hơn và tỷ lệ sống sót của con non cao hơn, mặc dù chúng phải chịu đựng trong những tháng nóng nhất. Sự hiện diện, màu sắc và kích thước của bờm liên quan đến yếu tố di truyền, trưởng thành tình dục, khí hậu và sản xuất testosterone; theo quy luật, bờm tối và dày thường cho thấy thể trạng tốt hơn. Tại Vườn quốc gia Serengeti, sư tử cái thường chọn những con đực có bờm dày và tối màu để giao phối. Bờm chủ yếu có chức năng bảo vệ cổ và cổ họng trong các trận chiến lãnh thổ. Ở các vườn thú châu Âu và Bắc Mỹ, nơi có khí hậu mát mẻ, sư tử thường có bờm dày hơn. Bờm của sư tử châu Á thường thưa thớt hơn so với sư tử châu Phi.
Hầu hết các con sư tử đực tại Công viên Quốc gia Pendjari đều không có bờm hoặc chỉ có bờm rất ngắn. Hiện tượng sư tử đực không bờm cũng đã được ghi nhận ở Sénégal, Công viên Quốc gia Dinder ở Sudan, và Công viên Quốc gia Đông Tsavo tại Kenya. Sư tử trắng đực từ Timbavati cũng không có bờm. Hormone testosterone đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của bờm; sư tử thiếu hormone này thường không có bờm do các tuyến sinh dục không sản xuất testosterone. Tình trạng testosterone cao đã khiến một số sư tử cái ở phía bắc Botswana xuất hiện bờm.
Những bức tranh hang động về sư tử hang động đã tuyệt chủng ở châu Âu chủ yếu chỉ mô tả các cuộc săn bắn mà sư tử không có bờm; một số người cho rằng đây là bằng chứng cho thấy sư tử không có bờm. Mặc dù việc săn bắn thường liên quan đến các nhóm sư tử, giả thuyết này vẫn chưa được xác thực. Trong hang Chauvet, có một bức vẽ đơn giản về hai con sư tử không có bờm, một con bị che khuất bởi con kia; con che khuất lớn hơn và có bìu dái. Bờm của sư tử có thể đã tiến hóa khoảng 320.000-190.000 năm trước.
Sự khác biệt về màu sắc
Sư tử trắng là một dạng hiếm gặp với tình trạng di truyền gọi là leucism, gây ra bởi một alen lặn kép. Chúng không phải là bạch tạng mà có màu trắng do gen lặn (nguyên nhân cũng tạo ra hổ trắng; nhiều hổ trắng với gen lặn đã được nhân giống để trưng bày tại vườn thú); chúng có sắc tố bình thường trong mắt và da. Sư tử trắng thỉnh thoảng được gặp ở Vườn quốc gia Kruger và Khu bảo tồn Timbavati Game ở phía đông Nam Phi. Sư tử trắng không có lợi thế trong việc săn mồi; màu trắng của chúng làm giảm khả năng ngụy trang. Chúng đã bị loại khỏi tự nhiên vào những năm 1970, giảm số lượng gen của sư tử trắng. Tuy nhiên, đã có 17 trường hợp sinh ra sư tử trắng được ghi nhận trong năm đàn từ năm 2007 đến 2015. Sư tử trắng thường được chọn để nhân giống trong điều kiện nuôi nhốt và đã được nuôi trong các trại ở Nam Phi như chiến lợi phẩm cho các cuộc săn bắn.
Một con sư tử trắng từ Khuzestan, Iran, có lớp lông màu nâu sẫm gần như đen, đã được mô tả bởi Austen Henry Layard.
Phân bố và môi trường sống
Sư tử thường sống ở các đồng cỏ rộng lớn và có mặt khắp nơi ở châu Phi. Tuy nhiên, chúng đang bị đe dọa, với quần thể chủ yếu tập trung tại các vườn quốc gia ở Tanzania và Nam Phi. Trước khi con người trở nên thống trị, sư tử là loài động vật chiếm nhiều lãnh thổ nhất trong số các loài động vật có vú trên cạn. Sư tử ưa thích đồng cỏ và thảo nguyên, gần sông và các khu rừng mở với nhiều bụi cây. Chúng không sống trong rừng nhiệt đới và hiếm khi vào những khu rừng rậm rạp. Ở núi Elgon, sư tử đã được phát hiện ở độ cao 3.600 m (11.800 ft) và gần các khu vực tuyết trên núi Kenya. Chúng cũng xuất hiện ở đồng cỏ và thảo nguyên với cây keo rải rác, tạo bóng mát cho chúng.
Ở châu Phi, sư tử trước đây từng phân bố rộng rãi ở các khu rừng mưa nhiệt đới trung tâm và sa mạc Sahara. Đến những năm 1960, chúng đã tuyệt chủng ở Bắc Phi, chỉ còn sót lại ở phía nam Sudan. Hiện nay, chúng chủ yếu sinh sống ở Nam Phi, Zimbabwe, Namibia, Botswana và Mozambique. Mặc dù chủ yếu sống trong các khu rừng, sư tử cũng có thể sống ở các vùng bán sa mạc và những khu vực nhiều bụi rậm.
Trên lục địa Á-Âu, sư tử từng có sự phân bố rộng lớn từ Hy Lạp đến Ấn Độ; Herodotus ghi nhận rằng vào năm 480 trước Công nguyên, sư tử rất phổ biến ở Hy Lạp, và chúng đã tấn công đoàn lạc đà của vua Ba Tư Xerxes I trên đường hành quân. Aristotles coi chúng là loài hiếm vào năm 300 trước Công nguyên, và đến năm 100 sau Công nguyên, chúng đã bị tuyệt chủng. Đến thế kỷ thứ 10, sư tử chỉ còn sống sót ở Kavkaz, điểm cuối cùng của châu Âu. Chúng đã biến mất ở Palestine trong thời Trung cổ, và từ hầu hết các khu vực khác của châu Á sau sự xuất hiện của súng vào thế kỷ 18. Từ cuối thế kỷ 19 đến cuối thế kỷ 20, chúng đã tuyệt chủng ở Tây Nam Á. Vào cuối thế kỷ 19, sư tử đã biến mất khỏi miền bắc Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Con sư tử cuối cùng ở Iran được nhìn thấy vào năm 1942, cách Dezful khoảng 65 km (40 dặm) về phía tây bắc. Xác của một con sư tử được phát hiện bên bờ sông Karun, tỉnh Khūzestān vào năm 1944. Kể từ đó, không có báo cáo đáng tin cậy nào từ Iran.
Những dấu vết cuối cùng của sư tử châu Á (phân loài Panthera leo persica), từng sống từ Hy Lạp đến Ấn Độ qua Persia, hiện chỉ còn lại ở rừng Gir phía tây bắc Ấn Độ. Khoảng 300 con sư tử hiện còn đang sinh sống trong khu vực rộng 1.412 km² (khoảng 550 dặm vuông) trong khu bảo tồn ở bang Gujarat.
Tập tính và sinh thái học
Sư tử chủ yếu dành thời gian để nghỉ ngơi, chúng chỉ hoạt động khoảng 20 giờ mỗi ngày. Mặc dù có thể hoạt động bất cứ lúc nào, nhưng thường thì mức độ hoạt động của chúng đạt đỉnh vào lúc hoàng hôn, với các hoạt động như giao tiếp, tắm rửa và đại tiện. Những khoảng thời gian hoạt động không liên tục kéo dài cho đến sáng, khi chúng thường xuyên đi săn. Chúng dành trung bình hai giờ mỗi ngày để đi lại và khoảng 50 phút để ăn. Tương tự như các loài mèo khác, khả năng nhìn đêm của sư tử rất xuất sắc, giúp chúng rất linh hoạt vào ban đêm.
Cấu trúc bầy đàn
Sư tử là loài mèo hoang dã có tập tính xã hội nhất, sống trong các nhóm gia đình gắn bó chặt chẽ gọi là 'bầy đàn'. Các nhóm sư tử đực được gọi là 'liên minh'. Trong bầy đàn, con cái tạo thành một đơn vị xã hội ổn định và không chấp nhận con cái từ bên ngoài. Thông thường, tất cả con cái trong đàn có mối quan hệ huyết thống (bà, mẹ, chị em). Thay đổi trong thành viên đàn chỉ xảy ra khi sư tử cái sinh ra hoặc chết đi, mặc dù một số con cái có thể rời đàn và sống đơn độc. Một đàn trung bình có khoảng 15 con, bao gồm một vài con cái trưởng thành và lên tới bốn con đực cùng đàn con của cả hai giới. Đã ghi nhận sự tồn tại của những đàn lớn lên tới 30 cá thể. Đàn sư tử Tsavo là ngoại lệ khi chỉ có một con đực trưởng thành. Các con non sẽ rời khỏi đàn mẹ khi chúng đạt tuổi trưởng thành khoảng hai hoặc ba tuổi.
Một số sư tử sống như 'kẻ du mục', di chuyển không theo quy luật, theo cặp hoặc đơn độc. Những con đực có liên quan, bị loại khỏi đàn sinh, thường di chuyển theo cặp. Sư tử đơn độc có thể gia nhập đàn và ngược lại. Sự tương tác giữa sư tử sống theo đàn và đơn độc thường mang tính đối kháng, mặc dù sư tử cái động dục cho phép tiếp cận. Đực thường trải qua nhiều năm sống đơn độc trước khi gia nhập đàn. Nghiên cứu tại Vườn quốc gia Serengeti cho thấy liên minh 'du mục' có thể cư trú từ 3,5 đến 7,3 tuổi. Tại Vườn quốc gia Kruger, sư tử đực di chuyển xa hơn 25 km khỏi đàn để tìm lãnh thổ riêng, trong khi sư tử cái ở gần đàn hơn. Do đó, sư tử cái trong một khu vực thường có mối quan hệ gần gũi hơn so với sư tử đực.
Khu vực mà một bầy sư tử chiếm đóng được gọi là 'vương quốc', trong khi khu vực của một con sư tử du mục là 'lãnh thổ'. Các con đực gắn bó với bầy thường tuần tra và bảo vệ lãnh thổ. Sự phát triển của xã hội trong sư tử cái, điều hiển nhiên nhất trong các loài mèo, là chủ đề gây tranh cãi. Mặc dù việc phối hợp trong săn mồi có thể giải thích, nhưng không chắc chắn lắm. Một số con cái chịu trách nhiệm nuôi dưỡng con non có thể bị bỏ lại lâu dài. Các thành viên trong đàn thường xuyên tham gia vào việc săn mồi và cải thiện kỹ năng của mình. Sức khỏe của những thành viên săn mồi là quan trọng cho sự sống còn của đàn; chúng là những người đầu tiên ăn con mồi. Các lợi ích khác bao gồm việc chia sẻ thức ăn với họ hàng, bảo vệ con non và lãnh thổ.
Cả con đực và con cái đều bảo vệ đàn trước kẻ xâm nhập, nhưng con đực thường hiệu quả hơn nhờ cấu trúc cơ thể mạnh mẽ. Một số cá thể thường xuyên dẫn đầu trong việc phòng thủ, trong khi những cá thể khác giữ vai trò quan sát. Sư tử thường đảm nhận vai trò cụ thể trong đàn, với các thành viên khác di chuyển chậm hơn. Có thể có phần thưởng liên quan đến việc lãnh đạo chống lại kẻ xâm nhập; cấp bậc trong đàn phản ánh trong các phản ứng này. Con đực liên kết với đàn phải bảo vệ mối quan hệ của mình với đàn khỏi những con đực bên ngoài, những kẻ có thể muốn chiếm đoạt.
Đàn sư tử châu Á có sự khác biệt so với đàn sư tử châu Phi về thành phần nhóm. Sư tử đực châu Á sống đơn độc hoặc theo nhóm tối đa ba con đực, tạo thành một đàn lỏng lẻo. Các cặp đực thường nghỉ ngơi và ăn cùng nhau, và thực hiện hành vi đánh dấu lãnh thổ tại cùng một địa điểm. Con cái liên kết với tối đa 12 con cái khác, tạo thành một đàn mạnh mẽ hơn cùng với đàn con của chúng. Chúng chia sẻ thức ăn lớn với nhau nhưng hiếm khi với con đực. Sư tử cái và đực chỉ gắn bó khi giao phối. Liên minh đực giữ lãnh thổ lâu hơn sư tử đơn độc. Trong liên minh ba hoặc bốn con đực, có sự phân cấp rõ ràng, với một con đực thống trị. Con đực thống trị thường giao phối nhiều hơn; nghiên cứu từ tháng 12 năm 2012 đến tháng 12 năm 2016 cho thấy các đối tác giao phối có lợi cho con đực thống trị.
Săn mồi
Như các loài mèo khác, sư tử là những tay săn mồi dũng mãnh và đóng vai trò là kẻ ăn thịt hàng đầu trong hệ sinh thái nhờ vào nguồn thức ăn phong phú. Tuy nhiên, điểm khác biệt là sư tử thường săn mồi theo bầy và thường nhắm đến những loài động vật lớn và nguy hiểm, khác với những kẻ săn mồi đơn độc. Bộ lông màu cát của chúng giúp hòa lẫn với đồng cỏ xavan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngụy trang. Chúng chủ yếu săn các loài động vật móng guốc cỡ trung bình đến lớn như ngựa vằn, linh dương đầu bò xanh, trâu rừng châu Phi, linh dương Gemsbok, hươu cao cổ, hà mã trưởng thành, và đôi khi là voi bụi rậm châu Phi chưa trưởng thành. Khi đơn lẻ, sư tử có thể dễ dàng săn các con mồi nhỏ hơn như sơn dương, linh dương, thỏ rừng và lợn nanh sừng châu Phi. Đôi khi, sư tử cũng săn lợn bướu hoặc thậm chí hải cẩu nếu sống gần bờ biển. Ở Ấn Độ, gia súc cũng là một phần quan trọng trong chế độ ăn uống của chúng. Khi có nhiều lựa chọn, sư tử thường bỏ qua voi, tê giác và hà mã trưởng thành, cùng các con mồi nhỏ như linh dương dik-dik, chuột đá, thỏ đồng và khỉ. Những con mồi không phổ biến khác bao gồm nhím và bò sát nhỏ. Sư tử cũng tấn công các loài săn mồi khác như báo hoa mai, báo săn và linh cẩu đốm, nhưng việc ăn thịt chúng là hiếm.
Sự lựa chọn con mồi của sư tử có sự khác biệt rõ rệt giữa các khu vực. Ở Công viên Quốc gia Serengeti, linh dương đầu bò, ngựa vằn và linh dương Thomson là những con mồi chính của sư tử. Trong Vườn quốc gia Kruger, hươu cao cổ, ngựa vằn và trâu rừng là những loài được săn nhiều nhất. Công viên quốc gia Manyara ghi nhận trâu rừng chiếm khoảng 62% chế độ ăn của sư tử. Ở Công viên Quốc gia Rừng Gir tại Ấn Độ, nai và hươu đốm là những con mồi phổ biến nhất. Trong đồng bằng Okavango, con mồi tiềm năng thay đổi theo mùa và có tới tám loài chiếm 75% khẩu phần ăn của sư tử. Sư tử thường tránh xa hà mã lớn, nhưng ở Công viên Quốc gia Virunga, sư tử thỉnh thoảng săn hà mã con, trong khi ở Công viên Quốc gia Gorongosa, chúng cũng đã được quan sát săn hà mã trưởng thành. Tại đầm lầy Savuti ở Công viên quốc gia Chobe Botswana, sư tử săn voi bụi rậm châu Phi chưa trưởng thành và đôi khi là những cá thể trưởng thành trong mùa khô khi hầu hết động vật móng guốc đã di cư ra khỏi khu vực. Vào tháng 10 năm 2005, một đàn sư tử lên tới 30 con đã giết tám con voi châu Phi từ bốn đến mười một tuổi. Tỷ lệ trọng lượng của con mồi so với động vật ăn thịt là 10-15:1 giữa voi và sư tử là tỷ lệ cao nhất được ghi nhận trong số các động vật có vú trên cạn.
Khi sư tử săn mồi, chúng thường thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả. Nếu săn một mình, sư tử giết con mồi bằng cách cắn vào cổ để làm gãy cổ hoặc tổn thương hệ tuần hoàn. Khi săn theo bầy, các con sư tử có thể giữ con mồi lớn trong khi những con khác tấn công cổ hoặc làm nghẹt thở con mồi bằng cách giữ chặt mõm nạn nhân, không cho nó thở. Một phương pháp khác là nhét miệng và lỗ mũi con mồi vào hàm để gây ngạt thở. Sư tử thường ăn con mồi ngay tại chỗ săn, nhưng đôi khi chúng kéo con mồi lớn đến nơi kín đáo để ăn. Con sư tử đực thường được quyền ăn trước, sau đó là con cái và cuối cùng là các con non. Đàn con phải chịu đựng nhiều nhất khi thức ăn khan hiếm, nhưng nếu không, tất cả các thành viên, kể cả sư tử già và què, đều có thể ăn no nhờ vào thức ăn thừa. Con mồi lớn được chia sẻ rộng rãi hơn trong đàn. Một con sư tử cái trưởng thành cần khoảng 5 kg thịt mỗi ngày, trong khi con đực cần khoảng 7 kg. Sư tử có thể ăn tới 30 kg thịt trong một phiên; nếu không tiêu thụ hết, chúng sẽ nghỉ ngơi vài giờ trước khi tiếp tục ăn. Vào những ngày nắng nóng, cả đàn thường tìm đến bóng râm, với một hoặc hai con đực đứng gác. Sư tử bảo vệ con mồi của chúng khỏi các loài ăn xác thối như kền kền và linh cẩu.
Sư tử có thể tiêu thụ xác thối khi có cơ hội; chúng thường ăn xác của các động vật chết vì bệnh tật hoặc bị các kẻ săn mồi khác hạ gục. Khi ăn xác thối, sư tử luôn chú ý đến những con kền kền bay lượn trên bầu trời, vì đây là loài chuyên ăn xác thối. Phần lớn xác thối mà linh cẩu và sư tử ăn thường do linh cẩu giết, không phải sư tử. Xác thối đóng góp một phần đáng kể vào chế độ ăn của sư tử. Những con sư tử ăn xác thối thường không chủ động tìm kiếm thức ăn mà thay vào đó, chúng tấn công và cướp mồi từ các kẻ săn mồi nhỏ hơn hoặc ít số lượng hơn. Chúng cũng thường bị các kẻ cạnh tranh như đàn linh cẩu đốm và chó hoang châu Phi đuổi khỏi mồi vì số lượng áp đảo.
Sư tử non bắt đầu học cách rình rập và săn mồi từ khoảng ba tháng tuổi, nhưng chỉ thực sự tham gia vào việc săn mồi khi gần một tuổi và trở nên thành thạo khi gần hai tuổi. Những con sư tử đơn lẻ có thể hạ gục con mồi có kích thước gấp đôi chúng, chẳng hạn như ngựa vằn và linh dương đầu bò, nhưng việc săn những con mồi lớn hơn như hươu cao cổ và trâu một mình là quá nguy hiểm. Sư tử săn mồi theo bầy thường đạt kết quả cao hơn. Sư tử cái, mặc dù nhỏ hơn, thực hiện phần lớn công việc săn mồi và giết mồi. Trong các cuộc săn, mỗi con sư tử cái có vị trí cụ thể, có thể là rình rập từ phía sau hoặc di chuyển từ vị trí trung tâm để khiến con mồi chạy vào bẫy. Sư tử đực thường không tham gia săn mồi nhóm mà chủ yếu giữ vai trò bảo vệ bầy đàn. Chúng là những chiến binh xuất sắc, với bộ bờm giúp bảo vệ trong các cuộc giao tranh, nhưng không hiệu quả trong việc săn mồi do kích thước lớn và bộ bờm cản trở việc ẩn nấp. Một số nghiên cứu cho thấy sư tử đực cũng có thể săn mồi thành công, thường là những thợ săn đơn lẻ, phục kích con mồi ở vùng nhỏ. Sư tử không nổi tiếng với sức chịu đựng lâu dài; trái tim của chúng chỉ chiếm khoảng 0,57% trọng lượng cơ thể, thấp hơn so với linh cẩu. Do đó, sư tử chỉ có thể chạy nhanh trong thời gian ngắn và cần phải gần con mồi trước khi tấn công. Chúng thường săn mồi trong điều kiện giảm tầm nhìn hoặc vào ban đêm. Nông dân đã phát hiện rằng việc vẽ mắt lên thân gia súc có thể khiến sư tử nghĩ rằng chúng đã bị phát hiện và chọn con mồi dễ dàng hơn. Các con mồi thường giữ bình tĩnh khi phát hiện sư tử, vì sư tử không có sức chịu đựng lâu dài như chó hoang. Vì vậy, các con sư tử khôn ngoan luôn cố gắng rút ngắn khoảng cách với con mồi trước khi ra tay.
Mặc dù có kích thước lớn, sư tử có khả năng chạy rất nhanh, đặc biệt là sư tử cái. Chúng có thể đạt tốc độ lên đến hơn 80 km/h, tuy nhiên, chỉ có thể duy trì tốc độ này trong thời gian ngắn. Sư tử cũng biết bơi và trèo cây nhưng thường tỏ ra vụng về với hai hoạt động này. Chúng thường trèo cây để cướp mồi từ báo hoa mai hoặc bơi qua sông để theo bầy thú vượt sông hoặc tìm kiếm lãnh thổ (đặc biệt là với những con sư tử không có lãnh thổ). Khác với hổ, khi bị sư tử tấn công, việc trèo cây không giúp bạn thoát nhưng nếu nhảy xuống sông, sư tử sẽ không đuổi theo vì chúng không tự tin khi xuống nước.
Thiên địch
Sư tử và linh cẩu đốm sinh sống trong cùng một vùng sinh thái và thường xuyên cạnh tranh nhau để kiếm mồi và xác chết; nghiên cứu cho thấy sự chồng chéo về chế độ ăn uống của chúng lên đến 58,6%. Sư tử thường không để ý đến linh cẩu đốm trừ khi chúng vừa săn được mồi và bị linh cẩu quấy rầy, trong khi linh cẩu đốm lại thường phản ứng rõ ràng trước sự xuất hiện của sư tử, dù có thức ăn hay không. Tại miệng núi lửa Ngorongoro, sư tử đã được ghi nhận cướp mồi của linh cẩu đốm, khiến tỷ lệ linh cẩu phải tự săn mồi tăng lên. Trong vườn quốc gia Chobe ở Botswana, linh cẩu đốm thường xuyên thách thức sư tử và đánh cắp đến 63% mồi của chúng. Khi đối mặt với mồi của sư tử, linh cẩu có thể chọn rời đi hoặc kiên nhẫn chờ đợi ở khoảng cách 30–100 mét cho đến khi sư tử ăn xong, thậm chí chúng đủ táo bạo để ăn cùng với sư tử và buộc sư tử phải bỏ mồi. Hai loài này có thể tấn công lẫn nhau mà không có lý do rõ ràng. Sư tử ăn thịt linh cẩu có thể chiếm tới 71% số ca tử vong của linh cẩu ở vườn quốc gia Etosha. Linh cẩu đốm đã học cách dụ sư tử xâm nhập vào lãnh thổ của chúng để huy động cả đàn bao vây và giết sư tử. Khi số lượng sư tử giảm trong Khu bảo tồn quốc gia Maasai Mara ở Kenya, linh cẩu đốm nhanh chóng phát triển. Các thí nghiệm trên linh cẩu đốm bị giam cầm cho thấy chúng không có phản ứng rõ ràng với sư tử nếu không có kinh nghiệm trước đó, nhưng lại sợ hãi khi ngửi thấy mùi sư tử. Kích thước của sư tử đực đôi khi cho phép chúng đối đầu với linh cẩu trong các cuộc xung đột, mang lại lợi thế cho chúng.
Sư tử có xu hướng thống trị những loài mèo nhỏ hơn như báo hoa mai và báo săn ở những khu vực chung sống; chúng không chỉ cướp mồi mà còn có thể giết chết cả con non và con trưởng thành của các loài này nếu có cơ hội. Báo săn, đặc biệt, có nguy cơ bị giết bởi sư tử hoặc các kẻ săn mồi khác lên tới 50%. Sư tử là mối đe dọa chính đối với báo săn con, chiếm đến 78,2% số cá thể non bị giết. Báo săn thường tránh các đối thủ cạnh tranh bằng cách thay đổi thời gian hoạt động và môi trường sống. Báo hoa mai có thể leo trèo để trú ẩn, nhưng sư tử cái đôi khi có thể leo cây và cướp mồi của chúng. Sư tử cũng áp đảo chó hoang châu Phi, cướp mồi và thậm chí săn những con chó non và trưởng thành. Mật độ chó hoang thấp ở khu vực có nhiều sư tử, tuy nhiên, có một số trường hợp sư tử già và bị thương trở thành con mồi của chó hoang. Sư tử cũng có thể xung đột với cá sấu sông Nile; tùy thuộc vào kích cỡ của từng loài, chúng có thể cướp mồi của nhau. Sư tử đã được ghi nhận giết cá sấu khi chúng bò lên đất liền, trong khi cá sấu cũng có thể tấn công sư tử nếu chúng xuống nước, với bằng chứng là móng vuốt sư tử đôi khi được tìm thấy trong dạ dày cá sấu.
Sinh sản và vòng đời
Hầu hết các sư tử cái bắt đầu sinh sản khi chúng khoảng bốn tuổi. Sư tử không có mùa sinh sản cụ thể và các con cái có thể giao phối với nhiều con đực. Dương vật của sư tử đực có gai hướng về phía sau, và khi rút ra, những gai này có thể cào vào thành âm đạo của con cái, góp phần vào quá trình rụng trứng. Một sư tử cái có thể giao phối với nhiều con đực trong cùng một chu kỳ động dục.
Khoảng cách giữa các thế hệ sư tử là khoảng bảy năm. Thời gian thai kỳ trung bình kéo dài khoảng 110 ngày; con cái sinh từ một đến bốn con trong một khu vực hẻo lánh như bụi cây, lau sậy, hang động hoặc nơi trú ẩn khác, thường cách xa đàn. Con cái thường đi săn một mình trong khi đàn con vẫn ở gần nơi trú ẩn. Sư tử con mới sinh chưa mở mắt - mắt chúng mở ra khoảng bảy ngày sau đó. Chúng nặng từ 1,2 đến 2,1 kg khi sinh và gần như không tự làm gì được, bắt đầu bò khoảng một hoặc hai ngày sau khi sinh và có thể đi bộ khoảng ba tuần tuổi. Để tránh bị phát hiện bởi kẻ săn mồi, sư tử cái thường xuyên di chuyển đàn con đến các địa điểm mới, mang từng con một bằng cách cắn nhẹ sau gáy.
Thông thường, sư tử mẹ không rời khỏi đàn và chỉ trở lại sau khi con non đạt sáu đến tám tuần tuổi. Đôi khi chúng có thể trở lại sớm hơn, đặc biệt nếu những con sư tử khác trong đàn cũng vừa sinh con. Các sư tử cái thường đồng bộ hóa chu kỳ sinh sản và cùng chăm sóc con non, các con non có thể bú từ bất kỳ sư tử cái nào trong đàn chứ không chỉ từ mẹ của chúng. Sự đồng bộ này giúp các con non phát triển với kích thước tương đồng và cơ hội sống sót ngang nhau, đồng thời tránh được sự ưu thế của những đàn con lớn hơn.
Khi lần đầu tiên được giới thiệu với phần còn lại của đàn, sư tử con có thể thiếu tự tin khi đối mặt với những con lớn hơn ngoài mẹ. Tuy nhiên, chúng nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống đàn, chơi đùa với nhau hoặc cố gắng gây sự chú ý của các con trưởng thành. Sư tử cái có con thường dễ khoan dung với các sư tử khác hơn là những con không có con. Mức độ chịu đựng của sư tử cái với đàn con thay đổi - có thể một con đực sẽ cho phép đàn con chơi với đuôi hoặc bờm của nó, trong khi con khác có thể gầm gừ và đuổi chúng đi.
Cai sữa xảy ra sau khoảng sáu đến bảy tháng. Sư tử đực đạt độ trưởng thành khoảng ba tuổi và có khả năng thách thức hoặc thay thế các con đực trưởng thành ở bốn đến năm tuổi. Chúng bắt đầu lão hóa và suy yếu từ độ tuổi 10 đến 15. Khi những con đực mới chiếm quyền, chúng thường giết chết các con non hiện có, có thể vì các con cái sẽ không chấp nhận giao phối cho đến khi con non trưởng thành hoặc chết. Con cái thường bảo vệ đàn con của mình khỏi các con đực xâm chiếm, nhưng hiếm khi thành công trừ khi có ba hoặc bốn con cái hợp lực. Các con non cũng có thể chết vì đói, bị bỏ rơi, hoặc bị săn mồi bởi báo, linh cẩu và chó hoang. Đến 80% sư tử con có thể chết trước hai tuổi.
Cả sư tử đực và cái có thể bị đẩy ra khỏi đàn để sống đơn độc, mặc dù con cái thường ở lại với đàn khi sinh ra. Khi đàn quá đông, những con sư tử trẻ nhất có thể bị buộc phải rời đi để tìm lãnh thổ mới. Khi một con sư tử đực mới chiếm đàn, những con sư tử ở độ tuổi vị thành niên - cả đực và cái - có thể bị đuổi đi. Sư tử có thể thể hiện hành vi đồng tính luyến ái; chúng có thể xoa đầu và lăn lộn với nhau, và thậm chí mô phỏng hành vi giao phối.
Sức khỏe
Dù không có kẻ thù tự nhiên, sư tử trưởng thành chủ yếu gặp nguy hiểm từ các cuộc tấn công của con người hoặc các cuộc xung đột với sư tử khác. Trong những cuộc tranh giành lãnh thổ hoặc con mồi, sư tử có thể gây ra thương tích nặng nề cho các thành viên trong đàn khác. Những con sư tử bị thương hoặc non nớt có thể bị linh cẩu, báo, hoặc bị giẫm đạp bởi trâu và voi. Sư tử cũng có thể bị giết khi săn mồi, đặc biệt bởi những con mồi mạnh mẽ như ngựa vằn, hà mã, hươu cao cổ, hoặc voi khi chúng bị đá hoặc húc.
Bọ ve thường gây hại cho các khu vực như tai, cổ và háng của sư tử. Các loài sán xơ mít trưởng thành đã được phát hiện trong ruột sư tử do sư tử ăn phải ấu trùng từ thịt linh dương. Năm 1962, sư tử trong miệng núi lửa Ngorongoro đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự bùng phát của ruồi chuồng trại, khiến chúng trở nên gầy gò và bị phủ đầy mảng trần, chảy máu. Vì không tìm được nơi trú ẩn để tránh ruồi, nhiều con sư tử đã chết hoặc di cư, làm giảm dân số từ 70 xuống còn 15 cá thể. Một đợt bùng phát khác vào năm 2001 đã giết chết sáu con sư tử.
Sư tử, đặc biệt là những cá thể bị giam cầm, rất dễ mắc các bệnh do virus như bệnh ở chó (CDV), virus suy giảm miễn dịch mèo (FIV) và viêm màng bụng truyền nhiễm ở mèo (FIP). CDV lây lan từ chó nhà và các động vật ăn thịt khác; một đợt dịch năm 1994 tại Vườn quốc gia Serengeti đã khiến nhiều con sư tử phát triển triệu chứng thần kinh như co giật. Trong khi dịch bệnh bùng phát, một số con sư tử đã chết vì viêm phổi và viêm não. FIV, mặc dù không được biết là gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sư tử, vẫn đáng lo ngại nên các kế hoạch sinh tồn khuyến cáo việc thử nghiệm ở sư tử nuôi nhốt. Virus này phổ biến ở một số quần thể sư tử hoang dã nhưng rất hiếm ở sư tử châu Á và Namibia.
Giao tiếp
Khi nghỉ ngơi, sư tử thể hiện tính xã hội thông qua nhiều hành vi khác nhau và chuyển động biểu cảm của chúng rất tinh tế. Hành động âu yếm và tiếp xúc như xoa đầu và liếm lông thường được so sánh với việc chải chuốt ở loài linh trưởng. Xoa đầu - cọ trán, mặt và cổ vào nhau - là một cách chào hỏi và thường xuất hiện khi một con sư tử quay trở lại đàn sau khi bị tách ra hoặc sau một trận đấu. Sư tử đực thường xoa đầu với các con đực khác, trong khi sư tử cái và con non thường xoa đầu với nhau. Hành vi liếm thường đi kèm với xoa đầu; đây là hành động tương hỗ và dường như mang lại niềm vui cho con được liếm. Đầu và cổ là những khu vực thường được liếm nhất, có thể do sư tử không thể tự liếm chúng.
Sư tử sử dụng một loạt các biểu cảm khuôn mặt và tư thế cơ thể để giao tiếp. Một biểu cảm phổ biến là 'khuôn mặt nhăn nhó' hoặc phản ứng flehmen, khi sư tử ngửi các tín hiệu hóa học với miệng mở, hàm răng nhe ra, mõm nhăn lại, mũi nhăn và tai thư giãn. Sư tử cũng sử dụng dấu hiệu hóa học và trực quan; sư tử đực sẽ đánh dấu lãnh thổ bằng nước tiểu và cào đất hoặc vỏ cây. Sư tử phát ra nhiều âm thanh khác nhau để giao tiếp, từ gầm gừ, meo meo, đến rống và gầm thét. Tiếng gầm của sư tử là âm thanh lớn nhất trong họ mèo, có thể nghe được từ khoảng cách 8 km vào ban đêm, nhằm thông báo sự hiện diện của chúng và đe dọa những kẻ xâm nhập. Thanh quản của sư tử có cấu trúc đặc biệt, với hai màng được phủ lớp mỡ mỏng, giúp âm thanh được khuếch đại tự nhiên như một chiếc loa.
Bảo tồn
Ở châu Phi
Hầu hết sư tử hiện tại sinh sống ở Đông và Nam Phi, nhưng số lượng của chúng đang giảm mạnh, khoảng 30%-50% mỗi 20 năm cuối thế kỷ 20. Chúng được liệt kê là loài sắp nguy cấp trong Sách đỏ IUCN. Năm 1975, người ta ước tính rằng số lượng sư tử đã giảm một nửa từ những năm 1950, còn khoảng 200.000 hoặc ít hơn. Ước tính quần thể sư tử châu Phi vào năm 2002-2004 nằm trong khoảng từ 16.500 đến 47.000 cá thể. Nguyên nhân chính của sự suy giảm là bệnh tật và sự can thiệp của con người. Mất môi trường sống và xung đột với con người là mối đe dọa lớn nhất đối với loài mèo lớn này.
Dự án sư tử Ewaso bảo vệ sư tử trong Khu bảo tồn quốc gia Samburu, Khu bảo tồn quốc gia Buffalo Springs và Khu bảo tồn quốc gia Shaba thuộc hệ sinh thái Ewaso Ng'iro ở miền bắc Kenya. Bên ngoài những khu vực này, sự tương tác giữa sư tử và con người cùng vật nuôi thường dẫn đến việc nhiều người quyết định giết chết sư tử.
Công viên quốc gia Kafue ở Zambia là nơi trú ẩn quan trọng cho sư tử, nơi các đám cháy rừng thường xuyên và việc săn bắt sư tử cùng con mồi hạn chế khả năng phục hồi của quần thể sư tử. Khi môi trường sống thuận lợi bị ngập lụt trong mùa mưa, sư tử mở rộng phạm vi di chuyển và phải di chuyển xa hơn, dẫn đến tỷ lệ tử vong cao.
Năm 2015, một quần thể khoảng 200 con sư tử, trước đây được cho là đã tuyệt chủng, đã được phát hiện tại Công viên Quốc gia Alatash, Ethiopia, gần biên giới Sudan.
Quần thể sư tử Tây Phi bị cô lập với sư tử Trung Phi, rất ít hoặc không có sự trao đổi cá thể sinh sản. Năm 2015, ước tính quần thể này chỉ còn khoảng 400 cá thể, trong đó có chưa đến 250 con trưởng thành. Chúng tồn tại trong ba khu vực được bảo vệ, chủ yếu là trong khu phức hợp Wap do Bénin, Burkina Faso và Nigeria quản lý. Quần thể này được liệt kê là cực kỳ nguy cấp. Khảo sát thực địa trong hệ sinh thái Wap cho thấy tỷ lệ chiếm hữu sư tử thấp nhất ở Vườn quốc gia W, cao hơn ở những khu vực có nhân viên thường trực và được bảo vệ tốt hơn. Một quần thể sống ở Công viên Quốc gia Waza của Cameroon, với khoảng 14 đến 21 cá thể từ năm 2009. Ngoài ra, ước tính có khoảng 50 đến 150 con sư tử trong hệ sinh thái Arly-Singou của Burkina Faso. Năm 2015, một con sư tử đực trưởng thành và một con cái được phát hiện ở Công viên Quốc gia Mole của Ghana, lần đầu tiên sư tử xuất hiện tại nước này sau 39 năm.
Tại Công viên Quốc gia Cao nguyên Batéké của Gabon, một con sư tử đực duy nhất đã liên tục được ghi lại bằng bẫy ảnh từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 9 năm 2017. Năm mẫu tóc của con sư tử này đã được thu thập và so sánh với các mẫu vật bảo tàng từ năm 1959. Phân tích di truyền cho thấy sư tử Batéké có liên quan chặt chẽ với sư tử bị giết ở khu vực này trong quá khứ. Các mẫu này được xếp vào nhóm sư tử từ Namibia và Botswana, gợi ý rằng sư tử Batéké có thể phân tán từ quần thể sư tử Nam Phi hoặc là hậu duệ của quần thể tổ tiên bị coi là tuyệt chủng từ cuối những năm 1990.
Tại Cộng hòa Congo, Công viên Quốc gia Odzala-Kokoua từng là thành trì của sư tử trong những năm 1990. Tuy nhiên, vào năm 2014, không có con sư tử nào được ghi nhận, nên quần thể được coi là tuyệt chủng cục bộ. Tại Cộng hòa Dân chủ Congo, có khoảng 150 con sư tử ở Công viên Quốc gia Garamba và 90 con ở Công viên Quốc gia Virunga; sau đó, một quần thể được hình thành tiếp giáp với sư tử Uganda. Năm 2010, số lượng sư tử ở Uganda được ước tính khoảng 408 ± 46 cá thể trong ba khu vực bảo vệ, bao gồm Công viên Quốc gia Nữ hoàng Elizabeth. Rất ít thông tin về sự phân bố và quy mô dân số sư tử ở Nam Sudan liền kề. Ở Sudan, sư tử đã được báo cáo xuất hiện ở các tỉnh Nam Darfur và Nam Kordofan trong những năm 1980.
Ở châu Á
Vườn quốc gia rừng Gir và các vùng lân cận tại khu vực Saurashtra, Bán đảo Kathiawar, bang Gujarat, Ấn Độ là nơi trú ẩn cuối cùng của quần thể sư tử châu Á, với diện tích 1.412 km2 (545 dặm vuông). Số lượng sư tử đã tăng từ khoảng 180 con năm 1974 lên khoảng 400 con vào năm 2010. Sự cô lập địa lý có thể gây ra hiện tượng cận huyết và giảm đa dạng di truyền. Từ năm 2008, sư tử châu Á đã được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng trong Sách đỏ IUCN. Năm 2015, quần thể tăng lên 523 cá thể với diện tích 7.000 km2 (2.700 dặm vuông) tại Saurashtra. Cuộc điều tra năm 2017 ghi nhận khoảng 650 cá thể.
Sự hiện diện của con người gần Công viên Quốc gia rừng Gir dẫn đến xung đột giữa sư tử, người dân địa phương và gia súc của họ. Một số người coi sự hiện diện của sư tử là lợi ích, vì chúng kiểm soát quần thể động vật ăn cỏ gây hại cho cây trồng. Kế hoạch thành lập một quần thể sư tử châu Á độc lập thứ hai tại Khu bảo tồn động vật hoang dã Kuno ở Madhya Pradesh đã được đề xuất, nhưng đến năm 2017, Dự án giới thiệu sư tử châu Á dường như khó có thể thực hiện.
Các dự án bảo tồn.
Sư tử đã được đưa vào Kế hoạch bảo tồn loài, một sáng kiến hợp tác của Hiệp hội Sở thú và Thủy cung nhằm nâng cao cơ hội sống sót cho chúng. Kế hoạch này bắt đầu vào năm 1982 cho sư tử châu Á nhưng bị ngừng lại khi phát hiện rằng nhiều sư tử châu Á ở vườn thú Bắc Mỹ đã lai với sư tử châu Phi, không còn thuần chủng. Kế hoạch bảo tồn sư tử châu Phi được triển khai vào năm 1993, tập trung vào quần thể Nam Phi, mặc dù việc đánh giá sự đa dạng di truyền của sư tử nuôi nhốt gặp khó khăn vì nguồn gốc không rõ ràng. Việc duy trì đa dạng di truyền trở nên thách thức do cần phải chú ý đến nguồn gốc của các cá thể để tránh lai tạo giữa các phân loài khác nhau, tuy nhiên, một số sư tử lai châu Á-châu Phi đã được sinh ra.
Sự phổ biến của sư tử Barbary trong vườn thú trước đây có thể làm tăng khả năng sư tử nuôi nhốt hiện tại là hậu duệ của những con sư tử Barbary. Ví dụ, sư tử tại Công viên động vật hoang dã Port Lympne ở Kent, Anh, được cho là có nguồn gốc từ đàn sư tử thuộc về Quốc vương Morocco. Còn 11 con sư tử được cho là Barbary trong vườn thú Addis Ababa có nguồn gốc từ đàn của Hoàng đế Haile Selassie. Dự án Sư tử Barbary quốc tế, do WildLink International phối hợp với Đại học Oxford, đã được khởi động với mục tiêu xác định và nhân giống sư tử Barbary giam cầm để tái giới thiệu chúng vào công viên quốc gia ở dãy núi Atlas của Morocco.
Khoảng 77% sư tử bị giam cầm đã được ghi nhận trong Hệ thống thông tin các loài quốc tế vào năm 2006 có nguồn gốc không rõ ràng; những con vật này có thể mang gen đã tuyệt chủng trong tự nhiên và có thể quan trọng cho việc duy trì sự đa dạng di truyền toàn cầu của sư tử. Những con sư tử nhập khẩu vào châu Âu trước giữa thế kỷ 19 có thể là sư tử Barbary từ Bắc Phi hoặc sư tử Cape từ Nam Phi.
Quan hệ với con người
Trong môi trường nuôi nhốt
Sư tử là một phần của nhóm động vật kỳ lạ đã trở thành trung tâm của các triển lãm vườn thú từ cuối thế kỷ 18. Nhóm này bao gồm các động vật có xương sống lớn như voi, tê giác, hà mã, linh trưởng lớn và các loài mèo lớn khác. Các sở thú đã cố gắng thu thập càng nhiều loài này càng tốt. Mặc dù nhiều sở thú hiện đại đã trở nên chọn lọc hơn trong việc triển lãm, vẫn có hơn 1.000 con sư tử châu Phi và 100 con sư tử châu Á trong các vườn thú và công viên động vật hoang dã toàn cầu. Chúng thường được giữ lại như một loài đại diện cho mục đích du lịch, giáo dục và bảo tồn. Sư tử có thể sống hơn 20 năm trong điều kiện giam cầm; Apollo, một con sư tử thường trú tại vườn thú Honolulu ở Hawaii, đã sống đến 22 tuổi và qua đời vào tháng 8 năm 2007, trong khi hai chị em của nó, sinh năm 1986, vẫn còn sống vào thời điểm đó.
Tại các thành phố cổ Taremu và Per-Bast của Ai Cập, các đền thờ được xây dựng để thờ các nữ thần sư tử của Ai Cập, Sekhmet và Bastet. Tại Taremu, còn có một đền thờ đặc biệt dành cho Maahes, con trai của Sekhmet, nơi sư tử được nuôi dưỡng và tự do di chuyển trong khuôn viên đền. Người Hy Lạp gọi thành phố này là Leontopolis ('Thành phố của sư tử') và ghi nhận thói quen này. Các vua Assyria đã nuôi và nhân giống sư tử vào khoảng năm 850 trước Công nguyên, và Alexander Đại đế cũng được cho là đã nuôi những con sư tử thuần hóa từ Malhi ở miền bắc Ấn Độ. Trong La Mã cổ đại, sư tử thường được các hoàng đế sử dụng trong các cuộc đấu trường hoặc để hành quyết. Những người nổi bật như Sulla, Pompey và Julius Caesar thường ra lệnh tàn sát hàng trăm con sư tử cùng lúc. Tại Ấn Độ, sư tử được các hoàng tử thuần hóa, và Marco Polo báo cáo rằng hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt cũng đã nuôi sư tử.
Các 'sở thú' đầu tiên ở châu Âu đã xuất hiện giữa các gia đình quý tộc và hoàng gia vào thế kỷ 13 và được gọi là seraglios; đến thế kỷ 17, chúng đã được biết đến với tên gọi menageries, một phần mở rộng của các bộ sưu tập kỳ lạ. Những nơi này lan rộng từ Pháp và Ý trong thời kỳ Phục Hưng đến phần còn lại của châu Âu. Ở Anh, mặc dù truyền thống seraglio chưa phát triển nhiều, sư tử đã được giữ tại Tháp Luân Đôn dưới triều vua John vào thế kỷ 13; điều này có thể đã bắt đầu từ trước đó, vào năm 1125, khi Henry I của Anh đã thả sư tử vào khu săn bắn của ông tại Woodstock, Oxfordshire.
Seraglios không chỉ thể hiện sức mạnh và sự giàu có của giới quý tộc mà còn thể hiện quyền lực qua việc nuôi các loài động vật hoang dã và voi lớn, các động vật này thường được giao đấu với nhau hoặc với các động vật thuần hóa. Những nơi này còn minh chứng cho sự thống trị của con người đối với thiên nhiên; sự thất bại của một con bò trước một con sư tử vào năm 1682 đã làm khán giả kinh ngạc, và sự hoảng loạn của một con voi trước một con tê giác đã thu hút sự chú ý của người xem. Tần suất các trận đấu như vậy dần giảm trong thế kỷ 17 do sự thay đổi trong quan điểm và sự chiếm ưu thế của những người bình dân. Truyền thống nuôi mèo lớn như thú cưng kéo dài đến thế kỷ 19 và được xem là rất kỳ lạ.
Sự hiện diện của sư tử tại Tháp Luân Đôn không ổn định và thường được bổ sung khi có một vị vua hoặc người phối ngẫu của ông như Marguerite d'Anjou, vợ của Henry VI của Anh, hoặc khi có yêu cầu. Các tài liệu ghi nhận cho thấy động vật tại Tháp Luân Đôn được giữ trong điều kiện kém vào thế kỷ 17, khác với điều kiện tốt hơn ở Firenze vào thời điểm đó. Các menagerie mở cửa cho công chúng vào thế kỷ 18, yêu cầu vé vào cửa là ba đồng hoặc cung cấp một con mèo hoặc chó để cho sư tử ăn. Một đối thủ lớn tại Exeter Exchange cũng trưng bày sư tử cho đến đầu thế kỷ 19. Tháp Menagerie đã bị đóng cửa bởi William IV của Anh và các động vật được chuyển đến Sở thú Luân Đôn, mở cửa vào ngày 27 tháng 4 năm 1828.
Vào thế kỷ 19, cùng với sự phát triển của thương mại thuộc địa, việc buôn bán động vật hoang dã trở nên phổ biến hơn; sư tử lúc này được xem là một mặt hàng tương đối rẻ tiền và dễ kiếm. Mặc dù giá của chúng vẫn cao hơn hổ, nhưng chúng vẫn rẻ hơn nhiều so với các loài động vật lớn hoặc khó vận chuyển như hươu cao cổ và hà mã, và đặc biệt là rẻ hơn so với gấu trúc lớn. Giống như nhiều loài động vật khác, sư tử được coi là một loại hàng hóa vô tận, bị khai thác một cách tàn nhẫn với nhiều tổn thất trong quá trình bắt giữ và vận chuyển.
Tại Sở thú Luân Đôn, sư tử đã phải sống trong điều kiện chật chội và thiếu thốn cho đến khi vào những năm 1870, một cơ sở mới với những chiếc lồng rộng rãi hơn được xây dựng. Vào đầu thế kỷ 20, Carl Hagenbeck thiết kế các chuồng bằng bê tông với không gian mở hơn và hào nước thay cho các thanh sắt, mang lại cảm giác gần gũi hơn với môi trường sống tự nhiên. Hagenbeck cũng thiết kế chuồng sư tử cho Sở thú Melbourne và Sở thú Taronga của Sydney; tuy nhiên, các thiết kế của ông không được áp dụng rộng rãi cho đến những năm 1960. Vào cuối thế kỷ 20, chuồng lớn hơn, gần gũi với tự nhiên và việc sử dụng lưới thép hoặc kính nhiều lớp đã thay thế các chuồng cũ, cho phép du khách quan sát động vật gần hơn. Một số điểm tham quan như Rừng mèo/Sư tử nhìn ra Công viên Động vật học Thành phố Oklahoma đã xây dựng các hang động trên mặt đất để tạo sự gần gũi hơn với du khách.
Săn bắn, đấu thú và thuần hóa
Săn sư tử đã là một trò tiêu khiển của hoàng gia từ thời cổ đại. Kỷ lục sớm nhất về việc săn sư tử là một bản khắc Ai Cập cổ đại vào khoảng năm 1380 trước Công nguyên, ghi lại việc Pharaon Amenhotep III đã tiêu diệt 102 con sư tử bằng mũi tên của chính mình trong mười năm đầu trị vì. Người Assyria thường thả sư tử bị giam cầm vào các khu vực dành riêng cho nhà vua để săn bắn, và sự kiện này thu hút sự theo dõi của khán giả khi nhà vua và đội quân của ông, trên lưng ngựa hoặc xe ngựa, tiêu diệt những con sư tử bằng mũi tên và giáo. Trong thời kỳ Đế quốc Mughal, sư tử cũng bị săn đuổi, với Hoàng đế Jahangir nổi tiếng với khả năng tiêu diệt các mãnh thú. Cuộc săn lùng sư tử hoàng gia thường nhằm chứng minh sức mạnh của nhà vua đối với thiên nhiên.
Sư tử là một trong năm loài thú săn lớn ở châu Phi, và trong truyền thống của người Maasai, việc giết sư tử từng là một nghi lễ quan trọng. Dù trước đây, việc săn sư tử thường do cá nhân thực hiện, nhưng do số lượng sư tử giảm mạnh, người lớn tuổi đã khuyên không nên săn sư tử một mình. Trong thời kỳ thuộc địa châu Âu vào thế kỷ 19, việc săn sư tử được khuyến khích vì chúng bị coi là kẻ phá hoại và có giá trị khoảng 1 bảng mỗi con. Hình ảnh của các thợ săn anh hùng săn đuổi sư tử đã trở nên phổ biến và chiếm lĩnh trong suốt một phần lớn thế kỷ. Các nhà thám hiểm và thợ săn đã tạo ra một hình ảnh phân chia động vật thành 'thiện' và 'ác' để làm tăng thêm sức hấp dẫn cho các cuộc phiêu lưu của họ, tự biến mình thành những nhân vật anh hùng. Điều này dẫn đến việc sư tử luôn bị nghi ngờ là kẻ ăn thịt người, đại diện cho 'nỗi sợ hãi trước thiên nhiên và sự hài lòng khi chinh phục nó'. Việc săn sư tử để tranh giải trong những năm gần đây đã gây ra nhiều tranh cãi. Sự kiện giết sư tử Cecil vào giữa năm 2015 bởi một du khách người Mỹ đã thu hút sự chỉ trích toàn cầu đối với việc săn sư tử. Tại Nam Phi, săn sư tử là một thú vui yêu thích của giới nhà giàu châu Âu, nơi những con sư tử được nuôi dưỡng từ nhỏ và sau đó thả vào khuôn viên chung để thợ săn dễ dàng tiêu diệt. Dù hoạt động này bị nhiều tổ chức bảo vệ động vật chỉ trích, nó vẫn rất phát triển ở nước này.
Chọi sư tử là một môn thể thao đẫm máu, trong đó các con sư tử sẽ chiến đấu với những động vật khác, thường là những con chó chọi hung dữ. Môn thể thao này đã tồn tại từ thời cổ đại và tiếp tục cho đến thế kỷ XVII. Cuối cùng, nó bị cấm ở Viên vào năm 1800 và ở Anh vào năm 1835.
Thuần hóa sư tử đề cập đến việc huấn luyện sư tử để phục vụ cho mục đích giải trí, một phần của rạp xiếc hoặc hành động cá nhân như Siegfried & Roy. Thuật ngữ này cũng áp dụng cho việc thuần hóa các loài mèo lớn khác như hổ, báo hoa mai và báo sư tử. Việc thuần hóa bắt đầu vào đầu thế kỷ 19 bởi Henri Martin người Pháp và Isaac Van Amburgh người Mỹ, cả hai đã lưu diễn rộng rãi và kỹ thuật của họ được nhiều người theo dõi sao chép. Van Amburgh đã biểu diễn trước Victoria của Anh vào năm 1838 trong chuyến lưu diễn ở Vương quốc Anh. Martin đã tạo ra một vở kịch câm mang tên Les Lions de Mysore ('những con sư tử của Mysore'), một ý tưởng mà Amburgh đã nhanh chóng mượn. Những màn biểu diễn này đã thay thế chủ nghĩa cưỡi ngựa làm trung tâm của các chương trình xiếc và đã trở thành một phần quan trọng trong nhận thức công chúng vào đầu thế kỷ 20 với sự phát triển của điện ảnh. Để chứng minh sự vượt trội của con người so với động vật, sư tử thuần hóa phục vụ một mục đích tương tự như việc chiến đấu với động vật của các thế kỷ trước. Bằng chứng cuối cùng về sự thống trị của người huấn luyện đối với sư tử là việc đặt đầu của người thuần hóa vào miệng sư tử. Ghế của người thuần hóa sư tử, hiện tại mang tính biểu tượng, có thể được sử dụng lần đầu tiên bởi Clyde Beatty người Mỹ (1903-1965).
Tấn công con người
Dù sư tử hiếm khi tấn công con người, một số cá thể, đặc biệt là những con đực, có thể chủ động tìm kiếm người. Những cuộc tấn công của sư tử thường xảy ra khi chúng không tìm được con mồi hoặc khi chúng đã già và không còn khả năng săn mồi. Một nguyên nhân khác là do con người vô tình xâm phạm lãnh thổ của sư tử, vì sư tử có tập tính bảo vệ lãnh thổ rất cao, tương tự như hổ. Một ví dụ nổi tiếng là sự kiện ở Tsavo vào năm 1898, khi 28 công nhân đường sắt bị sư tử tấn công và ăn thịt trong suốt hơn 9 tháng xây dựng cây cầu qua sông Tsavo ở Kenya. Người thợ săn đã viết sách chi tiết về hành vi của những con sư tử này, cho rằng chúng lớn hơn bình thường và có vẻ ốm đói, một con thậm chí bị sâu răng. Tuy nhiên, lý thuyết về bệnh tật, bao gồm cả sâu răng, không được tất cả các nhà nghiên cứu chấp nhận; phân tích răng và hàm của sư tử ăn thịt người cho thấy sự thiếu hụt con mồi ở các khu vực do con người quản lý là nguyên nhân chính dẫn đến hành vi này. Trong truyền thuyết, những con sư tử ăn thịt người đôi khi được coi như những con quái vật.
Kerbis Peterhans và Gnoske trong nghiên cứu của họ về hành vi ăn thịt người, bao gồm cả sự kiện Tsavo, cho rằng sư tử bị bệnh hoặc bị thương có thể dễ dàng trở thành kẻ ăn thịt người hơn, nhưng hành vi này không phải là bất thường nếu có kích thích như sự tiếp cận với vật nuôi hoặc xác người. Các tác giả chỉ ra rằng mối quan hệ này cũng được xác nhận giữa các loài báo và linh trưởng khác trong hồ sơ hóa thạch.
Nghiên cứu về hiện tượng sư tử ăn thịt người đã được thực hiện một cách có hệ thống. Các nhà khoa học từ Mỹ và Tanzania báo cáo rằng hành vi ăn thịt người của sư tử ở các vùng nông thôn Tanzania đã gia tăng đáng kể từ năm 1990 đến 2005. Ít nhất 563 người dân đã bị tấn công, với nhiều trường hợp bị sư tử ăn thịt trong khoảng thời gian này, con số vượt xa các cuộc tấn công của sư tử ở Tsavo. Các vụ việc xảy ra gần Công viên Quốc gia Selous ở quận Rufiji và tỉnh Lindi gần biên giới Mozambique. Trong khi sự mở rộng của các ngôi làng vào các vùng hoang dã là một yếu tố cần cân nhắc, các tác giả cho rằng chính sách bảo tồn cần giảm thiểu nguy hiểm, vì trong trường hợp này, bảo tồn có thể góp phần vào cái chết của con người. Các vụ việc ở Lindi cho thấy sư tử có thể bắt và ăn thịt người ngay từ các ngôi làng. Một nghiên cứu khác về 1.000 người bị sư tử tấn công ở miền nam Tanzania từ năm 1988 đến 2009 cho thấy các cuộc tấn công vào ban đêm có thể gia tăng khi có ít ánh sáng trăng. Theo thống kê, trung bình có khoảng 250 người bị sư tử giết chết mỗi năm.
Robert R. Frump cho biết rằng những người tị nạn từ Mozambique thường xuyên bị sư tử tấn công và ăn thịt khi họ di chuyển qua Vườn quốc gia Kruger ở Nam Phi vào ban đêm. Các quan chức của công viên đã xác nhận rằng vấn đề sư tử ăn thịt người là nghiêm trọng ở đây. Frump ước tính rằng hàng ngàn người có thể đã bị giết trong nhiều thập kỷ sau khi chế độ apartheid làm cho vườn quốc gia trở nên không thể tiếp cận, buộc người tị nạn phải đi qua vào ban đêm. Trước khi biên giới bị niêm phong, người Mozambique thường xuyên đi qua Kruger vào ban ngày mà không gặp phải nhiều nguy hiểm.
Nhà sinh thái học Craig Packer ước lượng có khoảng 200 đến 400 người Tanzania bị động vật hoang dã giết chết, trong đó sư tử được cho là đã gây ra cái chết của ít nhất 70 người. Theo Packer, từ năm 1990 đến 2004, sư tử đã tấn công 815 người ở Tanzania và giết chết 563 người. Packer và Ikanda là những nhà bảo tồn hiếm hoi tin rằng các nỗ lực bảo tồn phương Tây cần phải xem xét các vấn đề liên quan đến an toàn con người và thành công lâu dài trong việc bảo tồn sư tử.
Vào tháng 4 năm 2004, một con sư tử ăn thịt người đã bị giết bởi các trinh sát ở Nam Tanzania. Con sư tử này được cho là đã giết và ăn thịt ít nhất 35 người trong nhiều vụ việc xảy ra ở một số làng thuộc vùng đồng bằng Rufiji ven biển. Tiến sĩ Rolf D. Baldus, điều phối viên chương trình động vật hoang dã GTZ, cho rằng con sư tử đã săn người do có một áp xe lớn dưới răng hàm bị nứt và viết: 'Con sư tử này có lẽ đã phải chịu đựng nhiều đau đớn, đặc biệt là khi nó đang nhai.' Giống như các trường hợp khác, con sư tử này lớn, không có bờm và gặp vấn đề về răng.
Hồ sơ 'All-Africa' về sư tử ăn thịt người thường được cho là tập hợp các sự cố xảy ra giữa đầu những năm 1930 và cuối những năm 1940 ở Tanzania hiện đại, gây ra bởi một đàn được gọi là 'sư tử Njombe.' George Rushby, quản lý và thợ săn, đã tiêu diệt cả đàn này, mà qua ba thế hệ được cho là đã giết và ăn thịt từ 1.500 đến 2.000 người ở quận Njombe.
Sư tử châu Á đôi khi cũng có thể trở thành kẻ ăn thịt người. Khu bảo tồn Gir hiện không đủ lớn để duy trì số lượng sư tử lớn, khiến chúng có nguy cơ gây hại cho con người trong và xung quanh công viên quốc gia. Vào năm 2012, đã có hai cuộc tấn công vào con người được báo cáo tại khu vực cách khu bảo tồn khoảng 50–60 km (31-37 dặm).
Một số chuyên gia về động vật đã đưa ra các khuyến nghị về cách đối phó và bảo vệ bản thân khi gặp sư tử trong tự nhiên: Hãy duy trì giao tiếp mắt với nó và không để mắt đi chệch hướng. Lùi lại từ từ, không quay lưng và tuyệt đối không bỏ chạy. Sư tử thường quan sát con mồi trước khi lao vào tấn công. Trong tình huống này, vung tay để tạo cảm giác bạn lớn hơn và phát ra nhiều tiếng động để đánh lạc hướng kẻ săn mồi.
Sư tử trong văn hóa
Sư tử là một trong những biểu tượng động vật nổi bật nhất trong nền văn hóa nhân loại. Sư tử xuất hiện nhiều hơn bất kỳ động vật nào khác trong nghệ thuật và văn học. C.A.W. Guggisberg trong cuốn sách Simba của mình cho biết sư tử được nhắc đến 130 lần trong Kinh Thánh. Ngoài ra, sư tử còn xuất hiện trong các bức tranh hang động từ thời kỳ đồ đá. Nó đã được miêu tả phong phú trong các tác phẩm điêu khắc, tranh vẽ, trên cờ quốc gia, cũng như trong phim ảnh và văn học hiện đại. Sư tử là biểu tượng của sức mạnh và sự quý phái trong các nền văn hóa ở Châu Âu, Châu Á và Châu Phi, dù có các sự cố liên quan đến tấn công con người. Sư tử được biết đến với danh xưng 'vua của rừng rậm' và 'vua của các loài thú', trở thành một biểu tượng phổ biến cho hoàng gia và các hiệp sĩ.
Miêu tả về sư tử đã có từ thời kỳ đồ đá cũ. Những bức chạm khắc và tranh vẽ về sư tử được tìm thấy trong hang động Lascaux và hang Chauvet ở Pháp có tuổi đời từ 15.000 đến 17.000 năm. Một bức chạm khắc ngà voi hình đầu sư tử, được phát hiện trong hang động Vogelherd ở Swabian Alb, Tây Nam nước Đức, được gọi là Löwenmensch (sư tử-người) trong tiếng Đức. Tác phẩm điêu khắc này có niên đại ít nhất 32.000 năm, và có thể là 40.000 năm trước, thuộc về văn hóa Aurignacian.
Châu Phi
Người Ai Cập cổ đại đã mô tả nhiều vị thần chiến tranh của họ dưới hình dạng sư tử, được tôn thờ như những thợ săn dũng mãnh. Các vị thần liên quan đến sư tử trong văn hóa Ai Cập bao gồm: Bastet, Mafdet, Menhit, Pakhet, Sekhmet, Tefnut và Sphinx. Nữ thần báo thù Sekhmet, biểu tượng bởi hình ảnh một nữ sư tử, đại diện cho sức nóng mặt trời. Sư tử cũng được xem là người dẫn đường vào thế giới ngầm, nơi mặt trời đi qua mỗi đêm. Các ngôi mộ chân sư tử và hình ảnh xác ướp có sư tử trên lưng chứng minh mối liên hệ sâu sắc giữa sư tử và thế giới ngầm. Những xác ướp sư tử một phần đã được tìm thấy tại nghĩa địa Umm El Qa'ab trong ngôi mộ của Hor-Aha và tại Saqqara trong lăng mộ của Maïa.
Ở vùng cận Sahara châu Phi, quan niệm về sư tử thay đổi theo từng khu vực. Trong một số nền văn hóa, sư tử biểu trưng cho quyền lực và hoàng gia, với một số nhà cai trị có biệt danh liên quan đến sư tử. Ví dụ, Marijata của Đế quốc Mali được gọi là 'Sư tử của Mali'. Njaay, người sáng lập vương quốc Waalo, được cho là đã được sư tử nuôi dưỡng và trở về với người của mình với một phần sức mạnh của sư tử để đoàn kết họ thông qua kiến thức từ những con sư tử. Ở Tây Phi, việc được so sánh với sư tử là một lời khen ngợi lớn. Sư tử được coi là biểu tượng của tầng lớp cao nhất trong xã hội. Ở những khu vực có ít sư tử hơn, báo đốm đại diện cho đỉnh cao của hệ thống phân cấp. Trong tiếng Swahili, từ simba không chỉ có nghĩa là 'sư tử' mà còn mang ý nghĩa 'hung dữ', 'vua' và 'mạnh mẽ'.
Tại các khu vực ở Tây và Đông Phi, sư tử được liên kết với sự chữa lành và được xem là cầu nối giữa con người và thế giới siêu nhiên. Trong một số truyền thống Đông Phi, sư tử lại được coi là biểu tượng của sự lười biếng. Trong nhiều câu chuyện dân gian, sư tử thường được mô tả là kém thông minh và dễ bị các động vật khác lừa gạt. Dù sư tử thường xuất hiện trong các câu chuyện, tục ngữ và điệu nhảy, chúng ít khi được thể hiện nổi bật trong nghệ thuật thị giác.
Châu Cận Đông
Sư tử đã là một biểu tượng nổi bật tại Mesopotamia cổ đại, từ thời Sumer cho đến Assyrian và Babylon, nơi nó gắn liền với quyền lực hoàng gia. Nó là một trong những biểu tượng quan trọng của nữ thần Inanna / Ishtar. Sư tử Babylon được xem là biểu tượng hàng đầu của Đế quốc Babylon. Cuộc Săn Sư Tử của Ashurbanipal là một chuỗi phù điêu nổi tiếng từ khoảng năm 640 trước Công nguyên, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Anh. Ở Mesopotamia, sư tử liên kết với nữ thần sinh sản Ishtar và thần tối cao Marduk. Chủ đề săn sư tử hoàng gia, một hình ảnh phổ biến trong nghệ thuật Tây Á cổ đại, tượng trưng cho cái chết và sự tái sinh; việc tiêu diệt một con vật giống thần để đảm bảo sự tiếp tục của cuộc sống. Trong nhiều phù điêu đá mô tả cuộc săn sư tử của các vị vua, sự thần thánh và dũng cảm của sư tử được so sánh với thần thánh và dũng cảm của nhà vua.
Sư tử Judah là biểu tượng trong Kinh thánh đại diện cho bộ lạc Judah và sau đó là Vương quốc Judah. Sư tử xuất hiện nhiều lần trong Kinh thánh; đáng chú ý là trong Sách Daniel, nơi nhân vật chính từ chối thờ vua Darius và bị ném vào hang sư tử, nhưng lại thoát nạn một cách kỳ diệu (Dan 6). Trong Sách Thẩm phán, Samson tiêu diệt một con sư tử khi đi thăm một người phụ nữ Philistine (Judg 14). Sức mạnh và sự dữ tợn của sư tử được sử dụng để miêu tả sự tức giận của Thiên Chúa (A-mốt 3:4, 8; Lam 3:10) và mối đe dọa từ kẻ thù của Israel (Psm 17:12; Jer 2:30) và Satan (1 Pet 5:8). Sách Ê-sai sử dụng hình ảnh một con sư tử nằm cạnh một con bê và con của nó, ăn rơm để miêu tả sự hòa hợp trong tạo vật (Ê-sai 11:6). Trong Sách Khải Huyền, một con sư tử, một con bò, một người đàn ông và một con đại bàng xuất hiện trên ngai trời trong tầm nhìn của John (Rev 4:7); hình ảnh này đã được Giáo hội Kitô giáo sơ khai dùng để tượng trưng cho bốn sách phúc âm, với con sư tử đại diện cho Phúc âm Mark.
Châu Viễn Đông
Trong các văn bản Puranas của Ấn Độ giáo, Narasimha ('người đàn ông-sư tử') là hình tượng kết hợp giữa sư tử và người, được tôn thờ bởi các tín đồ, cứu đứa trẻ sùng bái Prahlada khỏi cha mình, vua quỷ dữ Hiranyakashipu. Vishnu xuất hiện dưới hình dạng nửa người, nửa sư tử ở Narasimha, với thân người và chân dưới, cùng khuôn mặt và móng vuốt giống như sư tử. Tên Singh, có nghĩa là 'sư tử', đã tồn tại hơn 2.000 năm ở Ấn Độ cổ đại. Ban đầu chỉ được dùng bởi Rajputs, thuộc đẳng cấp quân sự Hindu. Sau khi phong trào Khalsa được thành lập vào năm 1699, người Sikh cũng bắt đầu sử dụng tên 'Singh' theo mong muốn của Đạo sư Gobind Singh. Ngày nay, tên này được hàng triệu người Hindu và hơn 20 triệu người Sikh trên toàn thế giới sử dụng.
Sư tử châu Á là biểu tượng phổ biến trên nhiều lá cờ và huy hiệu ở châu Á, bao gồm cả Quốc huy Ấn Độ. Sư tử châu Á cũng là biểu tượng của người Sinhala, dân tộc chính ở Sri Lanka; thuật ngữ Sinhala trong tiếng Indo-Aryan có nghĩa là 'người sư tử' hoặc 'người mang máu sư tử', và hình ảnh sư tử cầm kiếm là trung tâm của quốc kỳ Sri Lanka.
Sư tử đá là một mô típ phổ biến trong nghệ thuật Trung Quốc, xuất hiện lần đầu vào cuối thời Xuân Thu (thế kỷ thứ năm hoặc thứ sáu trước Công nguyên) và trở nên phổ biến hơn trong thời kỳ nhà Hán (206 trước Công nguyên - 220 sau Công nguyên). Do sư tử không phải là loài bản địa của Trung Quốc, những mô tả ban đầu có phần không thực tế. Sau khi nghệ thuật Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào thời Đường sau thế kỷ thứ sáu sau Công nguyên, sư tử thường được miêu tả không có cánh, với thân hình ngắn và dày hơn cùng bờm xoăn. Múa lân - sư - rồng là điệu nhảy truyền thống trong văn hóa Trung Quốc, trong đó các diễn viên mặc trang phục sư tử bắt chước hành động của sư tử, thường có nhạc nền từ chũm chọe, trống và cồng chiêng. Điệu múa này được biểu diễn vào Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu và các dịp lễ khác để mang lại may mắn. Tượng sư tử đá Trung Quốc rất phổ biến ở Trung Quốc và Việt Nam, với người Trung Quốc sử dụng chúng để canh mộ, trong khi nhiều người Việt Nam đặt chúng trước cửa cơ quan, công sở, chùa chiền, nhà riêng và di tích lịch sử như một biểu tượng tôn nghiêm.
Tên gọi Singapore được bắt nguồn từ các từ trong tiếng Mã Lai singa (sư tử) và pora (thành phố/pháo đài), tương ứng với từ Tamil-tiếng Phạn. Theo Biên niên sử Mã Lai, tên này được đặt bởi hoàng tử Mã Lai Sang Nila Utama vào thế kỷ 14, người đã nhìn thấy một sinh vật giống như sư tử trên bờ sau cơn bão (có thể là sự nhầm lẫn với hổ). Sư tử hiện là biểu tượng chính thức của Singapore.
Châu Âu
Sư tử thường được dùng làm chủ đề trong điêu khắc và tạc tượng để tạo vẻ uy nghi hoặc hùng vĩ, đặc biệt trong các công trình công cộng. Những bức tượng sư tử nổi bật bao gồm các bức xung quanh tượng đô đốc Nelson ở quảng trường Trafalgar, Luân Đôn. Các nhóm tượng sư tử khác gồm bốn con bảo vệ lối vào cầu Britannia bắc qua eo biển Menai ở Wales.
Sư tử được chọn làm biểu tượng cho nhiều đội thể thao, từ các đội bóng đá quốc gia như Anh, Scotland và Singapore đến các câu lạc bộ nổi tiếng như Detroit Lions của NFL, Chelsea F.C. và Aston Villa ở Premier League, Eintracht Braunschweig của Bundesliga, cùng nhiều câu lạc bộ nhỏ hơn trên toàn cầu.
Sư tử tiếp tục xuất hiện trong văn học hiện đại qua các nhân vật nổi tiếng như Aslan trong loạt sách 'The Chronicles of Narnia' của CS Lewis và Lion Cowlyly Lion trong 'Phù thủy xứ Oz'. Biểu tượng sư tử đã được sử dụng trong điện ảnh từ lâu; một trong những con sư tử biểu tượng nhất là Leo, linh vật của hãng phim Metro-Goldwyn-Mayer (MGM) từ những năm 1920. Thập niên 1960 chứng kiến sự xuất hiện của Elsa, nữ hoàng sư tử từ Kenya, trong bộ phim 'Sinh ra tự do', dựa trên cuốn sách cùng tên. Sư tử cũng được thể hiện trong phim hoạt hình như 'The Lion King' của Walt Disney năm 1994. Ngoài ra, sư tử còn xuất hiện trong các rạp xiếc như Goliath The Lion và các nhân vật phụ khác trong loạt phim hoạt hình trẻ em 'Jojo's Circus' của Coffee Studios và Cartoon Pizza.
Hình ảnh
- Sư tử chiến đấu với hổ
- Tại sao có những con sư tử không có bờm?
Ghi chú
Tài nguyên bên ngoài
- Sư tử tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Sư tử trong Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Sư tử trong Encyclopedia of Life
- Sư tử trên trang Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học quốc gia Hoa Kỳ (NCBI).
- Sư tử 183803 trong Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS).
- Linnaeus (1758). “Panthera leo”. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2013.2. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.
- Gặp gỡ sư tử/hổ
- Animal Diversity Web: Panthera leo (sư tử)
- African Wildlife Foundation: Sư tử
- Cuộc chiến tại Kruger: video về một bầy sư tử chiến đấu với cá sấu và trâu rừng để giành phần thắng
- Thư mục của Biodiversity Heritage Library cho Felis leo
- Thư mục của Biodiversity Heritage Library cho Panthera leo
- BBC Nature: Lưu trữ 2010-11-06 tại Wayback Machine tin tức và video về sư tử từ các chương trình của BBC trong quá khứ và hiện tại.
- Quỹ Bảo tồn Sư tử - ví dụ về quỹ và các dự án nghiên cứu và bảo tồn sư tử
- Trung tâm Nghiên cứu Sư tử Lưu trữ 2010-01-07 tại Wayback Machine trang web của nhóm nghiên cứu tại Đại học Minnesota đã thực hiện nghiên cứu thực địa về sư tử và xuất bản các bài báo khoa học đã được bình duyệt