Câu 1
Câu 1 (trang 47, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Qua bài học này, bạn nghĩ điều gì làm cho một truyện ngắn hiện đại trở nên hấp dẫn?
Phương pháp giải:
Sử dụng kiến thức từ bài 1.
Lời giải chi tiết:
Trong bài học này, để tạo nên sức hấp dẫn của một truyện ngắn hiện đại, cần phải có nhiều yếu tố. Đầu tiên là lựa chọn góc nhìn. Đôi khi, không phải góc nhìn của người kể chuyện luôn là phù hợp nhất, mà chúng ta cần phải thay đổi góc nhìn, đứng ở lập trường của từng nhân vật để tạo ra quan điểm riêng, tạo nên một cái nhìn đa chiều về tính cách của mỗi nhân vật. Cách kể chuyện cũng là một yếu tố quan trọng. Trong truyện ngắn, việc sử dụng câu từ đơn giản, dễ hiểu thường hiệu quả hơn là những câu văn phức tạp. Vì vậy, cần phải linh hoạt trong việc sử dụng từ ngữ, trau chuốt mỗi khi mô tả cảnh vật, không gian, và đặc biệt chú ý đến cách sử dụng ngôn ngữ nói của từng nhân vật để tạo nên tính cách, tâm trạng, cảm xúc của họ. Như vậy, góc nhìn và cách kể chuyện có thể coi là hai yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sức hấp dẫn của truyện ngắn hiện đại.
Câu 2
Câu 2 (trang 47, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Thảo luận nhóm: Ý kiến của bạn về hình ảnh các nhân vật nữ: thị Nở (truyện ngắn Chí Phèo – Nam Cao) và người vợ nhặt (truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân). Từ đó, hãy đánh giá giá trị nhân đạo của mỗi tác phẩm.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ 2 tác phẩm, tập trung vào 2 nhân vật nữ.
Lời giải chi tiết:
Người phụ nữ Việt Nam đã từng là một đề tài không thể thiếu trong văn chương cả trong quá khứ và hiện tại, đặc biệt là trong văn chương hiện đại, chúng ta không thể không nhắc đến thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao và người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Đây là hai hình ảnh của phụ nữ Việt Nam hiện đại trong hai tình cảnh khác nhau, để lại nhiều suy tư cho độc giả. Đầu tiên là thị Nở. Dưới ngòi bút của Nam Cao, thị Nở được mô tả là một người phụ nữ không xinh đẹp, đã lớn tuổi lấy chồng và có thể coi là ngốc nghếch, không bình thường. Thị đã gặp Chí Phèo – một kẻ dị nghị của làng Vũ Đại. Ban đầu, thị cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ khi nhận được tình yêu của Chí, chăm sóc anh như người yêu thực sự mà không quan tâm đến quá khứ của anh. Tình yêu của thị dù giản dị nhưng đã làm cho Chí thay đổi, khiến anh muốn từ bỏ cuộc sống hiện tại, trở lại con đường làm người tốt. Nhưng về sau, thị lại lắng nghe lời của mẹ, quyết định chia tay anh mà không ngờ điều đó lại gây ra bi kịch sau này. Mặc dù vậy, chúng ta không thể đánh giá thị Nở là một người xấu, vì cô cũng không sai khi làm như vậy, cô cũng chỉ là một phụ nữ bình thường, mong muốn tình yêu, hạnh phúc nhưng Chí không phải là một người tốt. Nam Cao không khen, cũng không chê nhân vật này vì ông luôn tin vào sự tốt lành của con người. Trong một góc nhìn khác, trong thời kỳ đói năm Ất Dậu, trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân – nhân vật người vợ nhặt thể hiện sự thay đổi của tính cách dưới tác động của hoàn cảnh. Thị cũng là nạn nhân của thời kỳ đói, không việc làm, không nhà cửa. Với tâm trạng buồn rầu, thị tin vào lời mời cầu hôn của Tràng và theo anh về làm vợ mà không quan tâm đến hoàn cảnh của anh. Sau khi trò chuyện với bà cụ Tứ, đồng ý sống cuộc sống mới, thị trở thành một “người phụ nữ hiền lành, đảm đang” – hình ảnh đích thực của phụ nữ Việt Nam truyền thống. Tính cách của thị đã thay đổi hoàn toàn sau khi trở thành vợ của Tràng và thể hiện đúng bản chất của phụ nữ Việt Nam, khi gặp khó khăn họ có thể làm mọi cách để tồn tại, nhưng khi trở lại cuộc sống bình thường, họ vẫn là những người phụ nữ khiêm nhường đáng kính trọng. Qua đây, ta có thể thấy được cả hai tác phẩm đều thể hiện một giá trị nhân đạo sâu sắc. Một bên, Nam Cao luôn tin vào sự tốt lành của con người trong mọi hoàn cảnh, dù thế nào họ cũng có thể tìm ra sự tốt lành ở bên trong mình. Đối với Kim Lân, đó là mong muốn sống sót, tìm thấy niềm vui trong thời kỳ đói khó, là tình thương của người mẹ già dành cho con cái và những lời khuyên dạy hướng tới tương lai tươi sáng. Cuối cùng, cả hai tác phẩm đều phản ánh xã hội thời đó với các chính sách tàn bạo, những thực đơn độc ác của thực dân đế quốc đã đẩy con người đến giới hạn của đau khổ, làm cho họ mất đi nhân tính của mình.
Câu 3
Câu 3 (trang 47, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Tra cứu thêm một số truyện ngắn của Nam Cao (Lão Hạc, Đời thừa, Bài học quét nhà, Cái chết của con mực,...) và Kim Lân (Con chó xấu xí, Làng,...); từ đó, phân tích những điểm nổi bật trong nghệ thuật kể chuyện của từng tác giả.
Phương pháp giải:
Đọc thêm các tác phẩm bên ngoài kết hợp với những tác phẩm đã học để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
* Nam Cao
Ông là một trong những nhà văn có đóng góp quan trọng nhất đối với quá trình phát triển của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông luôn chú trọng viết về đời sống cùng cảnh quan xã hội. Bởi thế, truyện ngắn của ông luôn mang tông điệu bi ai, đắng cay – một nghệ thuật chân thành đầy sâu sắc. Điều đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây là nét độc đáo trong việc sáng tạo của ông.
Đầu tiên phải nói về việc chọn lựa đề tài, chủ đề độc đáo. Nam Cao thường chọn những đề tài nhỏ nhặt như câu chuyện về cuộc sống của Lão Hạc, Chí Phèo hay Hộ… để sáng tác. Nhưng qua những câu chuyện nhỏ bé đó, tính cách của nhân vật được thể hiện rõ, ông muốn truyền đạt những bài học sâu sắc, những triết lý nhân sinh về cuộc sống và con người, đồng thời phê phán thực trạng xã hội đương thời. Chủ đề chính mà ông khai thác là cuộc sống khốn khó, bế tắc trong cảnh đói khổ, nghèo đói như Lão Hạc; vấn đề về miếng cơm, cái đói khiến con người hy sinh tất cả để có một bữa ăn no như trong câu chuyện Một bữa no hay Tư cách mõ… Mọi thứ nhấn mạnh vào nỗi khổ đau, bất hạnh của người nông dân trước thời cách mạng Tháng Tám.
Và cuối cùng là nghệ thuật mô tả và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo. Ông luôn tôn trọng tư duy, chú trọng vào bên trong của con người, thể hiện niềm tin vào con người, lòng tốt của con người dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Bằng cách thâm nhập vào tâm hồn của nhân vật, ông có thể mô tả một cách rõ ràng nhất về các sự kiện, biến cố xảy ra trong từng câu chuyện, giúp người đọc hiểu sâu hơn về tác phẩm.
Có thể nói Nam Cao thực sự là một người viết văn tài ba của văn học Việt Nam với phong cách viết chân thực, đơn giản, phản ánh cuộc sống hàng ngày nhằm truyền đạt những giá trị nhân sinh sâu sắc.
* Kim Lân
Kim Lân – một trong những tên tuổi sáng giá khi viết về nông thôn Việt Nam. Tên tuổi của ông liên quan đến những tác phẩm giản dị, nhân văn sâu sắc của những người nông dân chân chất, sống trong bối cảnh loạn lạc. Bởi vậy, nghệ thuật kể chuyện của ông luôn thu hút sự chú ý của nhiều người đọc.
Trước hết là việc chọn đề tài, chủ đề cho tác phẩm. Các tác phẩm của ông đều xoay quanh nông thôn – nơi sinh sống của những người nông dân chân thật, giàu lòng yêu thương con người nhưng cuộc sống thường bất hạnh. Như trong truyện ngắn Làng, đó là biểu tượng của một người yêu quê hương, yêu làng xóm của mình nhưng phải ra đi vì bất bình. Đó là câu chuyện về mối tình bất ngờ của Tràng và thị… Tất cả đều là những người nghèo khổ nhưng đầy tình thương, yêu quê hương đất nước dù đang phải chịu đựng chiến tranh, loạn lạc, nghèo đói.
Và cuối cùng là nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo. Không thể phủ nhận rằng ông rất tài năng trong việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ tuyệt vời với sự kết hợp hài hòa nhưng vẫn giữ được vẻ mộc mạc, giản dị của ngôn ngữ quê mùa. Như trong truyện ngắn Làng hay Vợ nhặt, ta dễ dàng bắt gặp những từ ngữ mô tả chân dung nhân vật một cách sáng tạo mà hợp lý như “gà gà”, “nhấp nhỉnh”…
Tóm lại, nhờ vào sự sắc sảo trong lời văn cũng như nhân vật, truyện ngắn của Kim Lân luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về triết lý xã hội sâu sắc về tình người và tình yêu quê hương đất nước. Để từ đó khẳng định song hành cùng những vấn đề về miếng cơm manh áo thì đó là vấn đề tình người và nó mới là yếu tố quan trọng cứu rỗi cuộc đời bất hạnh của mọi người trong thời buổi loạn lạc.