Khám phá thêm: Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm)
Hoàng Cầm, nhà thơ của vùng đất Kinh Bắc, sinh năm 1922. Ông lên tiếng về quê hương, nơi mà Mẹ là đất, Cha là trời:
Quê mẹ bên dòng sông,
Quê cha chia nước một dòng trắng…'
Dòng sông 'nước trắng' đó chính là dòng sông Đuống đầy yêu thương. Hoàng Cầm, thi sĩ tài năng trong thế hệ hiện đại, hòa mình vào những mối tình thơ mộng, như tìm kiếm 'lá diêu bông' trên chiều thu tím. Đời ông trải qua bao nỗi đau, ông khóc cho bản thân và khóc cho đứa con gái yêu quý:
Con hóa thành vì sao thương nhớ,
Khắc sâu dấu vết sao băng'.
(Men đá vàng)
Với hơn 60 năm làm thơ từ khi viết 'Hận Nam Quan' (1937) đến khi xuất bản tập thơ 'Men Đá Vàng' (1995), Hoàng Cầm để lại những tác phẩm vang bóng như 'Bên kia sông Đuống', 'Lá diêu bông', 'Mưa Thuận Thành', kịch thơ 'Trương Chi'… Tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ suốt cuộc đời.
Bài thơ 'Bên kia sông Đuống' được Hoàng Cầm sáng tác vào một đêm tháng 4 năm 1948, trong chiến khu Việt Bắc. Nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới bóng đèn dầu, giữa âm thanh của tiếng súng, ông viết thơ thấu canh, đến khi gà gáy bình minh mới hoàn thành. 'Bên kia sông Đuống' là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất về đề tài quê hương trong thơ chiến tranh chống Pháp; tác phẩm này đã tôn vinh tên tuổi của nhà thơ Hoàng Cầm. Bài thơ chứa đựng niềm say mê quê hương, hồn quê nồng nàn. Nỗi nhớ thương, tự hào về quê Mẹ đất Cha, nỗi tiếc nuối, sự căm hận… đều là cảm xúc chính trong tác phẩm này. Với 134 dòng thơ tinh tế, tận hưởng, và đầy cảm xúc, bài thơ làm rung động trái tim người đọc. Hoàng Cầm đã nói về 'Bên kia sông Đuống': 'Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những ca dao Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ'. Chính hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã tạo nên bản hòa âm trữ tình của bài thơ này.
Khởi đầu bằng một tiếng gọi mơ mộng, xa xôi trong kí ức, với những nỗi nhớ, niềm thương, và ký ức lưu luyến:
Anh dẫn em đến bên sông Đuống,
Ngày xưa cát trắng phẳng lì'.
Dòng sông tuổi thơ, 'cát trắng phẳng lì', là nguồn cảm xúc buồn bã, nhớ nhung của anh và em, của thời xưa, của những năm tháng yêu thương. Em là phần của tâm hồn nhà thơ, 'người tình chung' đã để lại dấu ân trong lòng người nghe:
Một dòng nước lấp lánh,
Nằm nghiêng nghiêng trong chiến trường khốc liệt'.
Hai từ 'trôi qua…' mang đến không khí êm dịu, man mác 'nước chảy lơ thơ…'. 'Một dòng sông lấp lánh' như cát trắng, như gương sông chiếu ánh hồng bình minh, trăng sao trong đêm thu thơ mộng. Sông Đuống hiện lên là một dòng sông nổi bật. Dáng sông Đuống không uốn lượn như con long trong 'làng ta' (ca dao) mà lại 'Nằm nghiêng nghiêng trong chiến trường khốc liệt'. Câu thơ tuyệt vời để tạo ra cảm xúc, đọc lên nhận thức bản thân với niềm hứng thú và thi vị. Có vẻ như tác giả viết bằng bút siêu thực? Có vẻ như câu thơ được xây dựng với kỹ thuật điện ảnh hiện đại? Đó là một sáng tạo vô song trong thơ của nhà thơ tài năng Hoàng Cầm.
Sông Đuống, sông của tuổi thơ, là sự hiện hữu của kí ức. Màu xanh 'xanh xanh' của bãi mía, màu 'biêng biếc' của ngô khoai là biểu tượng của miền thơ ấu, là hình ảnh quê hương. Bức tranh quê hương tươi tắn, đầy sức sống… Nhớ về quê hương, nơi mình chôn nhau cắt rốn, đứa con đứng bên này sông nhìn về 'bên kia sông Đuống', từ tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi 'tâm hồn ta thấm đất', nỗi nhớ, nỗi buồn không thể nào kể hết:
Nhớ đến quê hương, nỗi xót xa'.
'Hồi ức âm thầm, nỗi xót xa…' vì quê hương đang chìm trong hồn đau. Nỗi nhớ, nỗi đau cực độ, làm tê tái cả hồn người, làm 'chết đi ' từng phần cơ thể. Câu thơ 'Nỗi xót xa như rụng bàn tay' đã tả chi tiết nỗi đau xót xa về cả thể xác và tâm hồn. Đầu thế kỷ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi 'nghe' tin bạn thân qua đời: 'Làm sao bác vội về ngay – Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời'. Một đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Cả hai nhà thơ đều mượn cách diễn đạt dân gian để biểu đạt tâm trạng tan nát, nỗi lòng tan vỡ. Yêu quê hương mến chung thuỷ với quê Mẹ là điều khiến Hoàng Cầm có nỗi đâu 'nhớ xót' và 'xót xa như rụng bàn tay' ấy.
Có thể nói, mười dòng thơ trong phần đầu của bài thơ 'Bên kia sông Đuống' là cái nhìn chìm đắm trong 'nhớ xót', là nỗi đau tê tái 'xót xa', là tình yêu quê không nguôi.. của đứa con li hương. Vần thơ như tiếng khóc thầm, rồi nổi lên như tiếng nghẹn nấc: 'biêng biếc… nhớ xót … như rụng bàn tay'.
Quê hương ta đồng ruộng mềm mại
Tranh Đông Hồ gà lợn đẹp huyền bí
Màu dân tộc sặc sỡ trên giấy điệp'.
'Bên kia sông Đuống' là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, vùng đất trù phú và mang đậm bản sắc văn hóa, văn minh hàng nghìn năm thuộc miền Kinh Bắc. Chỉ với vài đường nét, nhà thơ đã hô biến hình ảnh của quê hương. Ba từ 'quê hương ta' vang lên với tự hào, làm động lòng mọi người. Hương lúa nếp thơm phức của gói cơm mới, cảnh đồng lúa xanh tươi, hương xôi, mùi bánh… trên bàn ăn tết, trên bàn thờ ông bà tổ tiên. Hương lúa nếp thơm đã gắn bó với tâm hồn của 'anh' và 'em' từ thuở nào. Nhớ 'quê hương ta' chính là nhớ mùi 'thơm phức' của lúa nếp, là nhớ bức tranh làng Hồ, tranh gà lợn, nhớ nét vẽ tài năng 'huyền bí', nhớ 'màu dân tộc', nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp 'sặc sỡ trên giấy điệp' đầy sức sống, mềm mại. Tình yêu quê được truyền đạt, được thể hiện qua những từ ngữ (đồng ruộng mềm mại, đẹp huyền bí, sặc sỡ…), qua những từ ngữ (nồng, trong, sặc sỡ…), đã đưa sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn lên cao với tình yêu thương đậm đà. Hai từ 'sặc sỡ' đưa vào cái hồn quê xinh đẹp, mềm mại say sưa, đã làm sáng tỏ cả vần thơ và kỷ niệm, đã thổi vào bức tranh quê cả sức sống và tình yêu ngọt ngào. Cũng như dân ca Quan họ, tranh dân gian Đông Hồ được tác giả mê mẩn, tự hào, từ chủ đề đến chất liệu, từ ý tưởng đến phong cách nghệ thuật mang vẻ đẹp đồ sộ, dân dã, mến yêu 'sặc sỡ' màu sắc dân tộc.
Nhưng giờ đây còn đâu nữa? – 'Quê hương ta từ ngày đen tối – Giặc đến càn quét lửa đỏ rực'. 'Ngày đen tối' bắt đầu từ 19 – 12 – 1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những vùng quê bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. 'Những cánh đồng quê chảy máu', những đường làng 'xương máu tơi bời', … cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân xâm lược kéo đến quê hương ta là: 'Chó ngựa kéo theo dòng chảy – Lưỡi dài lê sắc máu'. Chúng hung dữ đốt cháy, bắn giết: ruộng khô, nhà cháy, con người trên con đường hoang vu cùng. Sự sống bị xóa sổ, cả một vùng quê tan nát, đau lòng:
Chia lìa con đường
Đám cưới chuột náo loạn xôn xao
Nay đâu hư vong'.
Ước mơ yên bình, ấm áp, hạnh phúc của 'quê hương ta' bao đời nay bị quân xâm lược đẩy vào tan tác chia lìa. Từ nỗi đau thể chất đến nỗi đau tinh thần là đau đớn khó tả! Sử dụng hình ảnh trong hai bức tranh làng Hồ, tranh lợn và tranh đám cưới chuột để mô tả cảnh đau buồn, chia lìa tan tác trên quê hương. Nhà thơ đã khuấy động tình cảm quê mình, tình quê đổ ngập, rơi lệ trong lòng người bấy giờ. Vẻ đẹp văn hóa của dân tộc trong cuộc sống, trong cảnh vật đã bị 'lửa tàn' hủy diệt! Những câu thơ ngắn xen kẽ với câu thơ dài tạo nên bức tranh của sự căm giận, nghẹn ngào ẩn sau trái tim đang bốc cháy.
Nỗi nhớ quê hương mỗi trận gió, Hoàng Cầm thổ lộ: 'Ai đến bên kia sông Đuống – Cho tôi gửi tấm lòng đen… - Gửi về may áo cho người…' – Vẫn chỉ là lời gọi thầm 'Ai đến…' 'cho người…', đều bộc lộ nỗi nhớ bồi hồi, sâu sắc. Tình quê hồi sinh trong kí ức là 'vùng mộng bình yên', là hình ảnh nhớ chùa cổ, tháp cổ, nhớ những hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông chùa sớm sớm chiều chiều vang lên. Nhớ cuộc sống hạnh phúc, bình yên, nhớ những cảnh đẹp… đã in sâu vào trái tim của đứa con xa xôi:
Những lễ hội truyền thống
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về áo may cho ai
Chuông chùa vẫn vang vẳng, người ở đâu'.
Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn… chỉ còn 'vẫn vang vẳng' từ 'mấy trăm năm như giấc mộng bình yên' vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm đau thương, nói lên sự hoang vắng, êm đềm của quê hương, thể hiện sự mơ ước ngàn năm sống trong yên bình.
Nhớ cảnh và nhớ người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng hình ảnh, nhớ từng đặc điểm khuôn mặt, nhớ đến tóc, nhớ chiếc quần nâu, nhớ chi tiết, nhớ rõ ràng… Chữ 'những' lặp đi lặp lại nhiều lần để diễn đạt nỗi nhớ vô tận, hồi hộp, xúc động:
Những cụ già mặc phơ tóc bạch
Những cô gái xinh đẹp quần nâu
Bây giờ bước đi về đâu'.
'Ai về… nhớ không' – về bên kia sông Đuống, quê hương của ta, của anh và của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ rất nhiều. Nhớ 'từng bụi sen trắng', nhớ nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những cô gái xinh đẹp, tình tứ, dịu dàng. Nhớ người dệt lụa, nhớ nàng dệt sợi, nhớ người thợ nhuộm, … những con người tận tâm, siêng năng, khéo léo, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống và con người quê hương hiện lên qua kí ức đầy màu sắc, khôn khuây:
Còn nhớ từng bụi sen trắng
Những cô gái xinh đẹp làm thuốc lá đen,
Mỉm cười như nắng thu rực rỡ
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen,
Bãi Trầm Chỉ người dệt lụa nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Mang bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu về đâu'.
Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mơ mộng, liên kết mạch sống đời thường sôi động với cái vẻ đẹp tình tứ đáng yêu mà chúng ta cảm nhận được trong tâm hồn mình, một biển cả trời lòng nhớ thương: 'Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu – Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm – Này ai đi chợ Thanh Lâm – Mua anh một chiếc áo vải đen thâm hạt dẻo'. Qua đó, ta trải nghiệm hương vị dân tộc, chất tình cảm, hư ảo đã tạo nên vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.
Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ… Hoàng Cầm nói về bà mẹ và đàn con thơ với nhiều kí ức thương nhớ, đau xót. 'Mẹ già nua đầu gánh hàng rong' xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi 'lũ quỷ mắt xanh' kéo đến cướp bóc: 'Lá đa lác đác trước lều – Một vài vệt máu loang dọc theo chiều mưa'. Bờ tre thì 'khuất mắt', trời thì 'mưa lạnh' con đường thì 'nhám',… cả một không gian tối tăm, lạnh lẽo, đáng sợ… Trên bầu trời, cánh cò xao xác 'bay đâu đó', … 'đi về đâu…'. Trên con đường trơn trượt, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi 'bước cao thấp' với đầy nỗi kinh hoàng. Hình ảnh thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:
Điều bồi hồi qua dòng sông Đuống, ngóng chờ…
Mẹ ta lòng đói, dạ sầu thương con cái,
Con đường trơn trượt, mái đầu bạc phơ ướt lạnh'.
Những đứa trẻ đang phải đối mặt với đói rét và nỗi sợ hãi. Chỉ có bát cháo ngô làm ấm bụng, chỉ biết 'lẩn gầm giường tránh bom đạn', đêm đêm sống trong lo sợ giữa âm thanh kinh hoàng của súng đạn: 'Tiếng ầm ầm mênh mông – Rung rinh giật mình'… Hình ảnh của bà mẹ và đứa con nhỏ trong đoạn thơ này trở thành biểu tượng cho nỗi đau thương của những người mẹ, những đứa trẻ, những nạn nhân của cuộc chiến. Câu thơ cuối cùng trong phần hai là tiếng la hét đầy căm hận. Hoàng Cầm bày tỏ tình cảm phẫn nộ trước kẻ thù bằng một cách diễn đạt độc đáo, mạnh mẽ:
Chúng ta không bao giờ quên được sự căm hận đó'.
Ngoài sự đối lập rõ ràng giữa 'mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên' và 'Quê hương ta từ ngày khủng khiếp', Hoàng Cầm lặp đi lặp lại những câu thơ: 'Bây giờ bước đi về đâu… Chuông chùa vang lên giờ này ai ở đâu… Bây giờ đi về đâu vậy…' – những đoạn thông điệp, những giai điệu không chỉ tạo ra hình ảnh xót xa và cảm giác hỗn loạn về đau thương, tang thương trong ngọn lửa chiến tranh, mà còn gửi gắm hình ảnh u buồn về những thời kỳ hòa bình, đẹp đẽ của quê hương.
Giọng điệu của thơ thay đổi ở đoạn ba, với 49 câu thơ tiếp theo. Niềm vui lan tỏa khi gặp lại tình yêu thương của những người dân khi 'quân đội ở bên sông trở về'. Hình ảnh của bà mẹ quê hương trở thành biểu tượng cho niềm hạnh phúc tái sinh, 'nở rộ' sau những ngày tháng đen tối, 'khủng khiếp':
Khuôn mặt tỏa sáng như đón ánh trăng'.
Bất ngờ 'Trại giặc bắt đầu rùng chuyển trong sương mờ'. Toàn bộ vùng quê trải ra trước mắt với một hình ảnh mới lạ, ruộng đồng thắm tươi màu xanh mướt :
Nông dân lao động, lính đánh giặc, tay đầy cày bừa'.
Niềm vui nảy cao như 'mở hội…', niềm vui của chiến thắng. Nhịp thơ ngắn gọn, hùng vĩ. Sông Đuống hiện hữu trong khung cảnh tràn ngập sắc màu tuyệt vời :
Bầu trời đã tỏ sáng
Sông Đuống cuộn trôi hùng vĩ … '.
Đoạn thứ hai mang đến những câu thơ cảm động, hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ trải rộng, yếu tố 'kể' đè lên yếu tố trữ tình. Tác phẩm được sáng tác vào mùa xuân năm 1948, sau cùng là sáu năm sau đó (1954), vượt qua những gian nan, hy sinh lớn lao, mới xuất hiện cảnh 'đám giặc khuất phủ', và mới có 'chim hòa mình trong ánh sáng' giữa khói lửa. Vì vậy, sự lãng mạn khi nói về quê hương, chiến đấu và chiến thắng xuất hiện một cách tự nhiên, tóm gọn.
Phần thứ ba với sáu dòng thơ mô tả ước mơ 'khi nào vượt qua sông Đuống' trong buổi hội non sông, trong niềm vui đoàn tụ. Một lần nữa, hình ảnh cô gái Kinh Bắc hiện lên với vẻ đẹp kì diệu và tình tứ :
Em diện chiếc yếm thắm
Em buộc lụa hồng
Em bước trẩy hội non sông
Tươi cười dưới ánh sáng muôn lòng xuân xanh'.
Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn dòng, bài thơ kết thúc bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi mô tả niềm vui vang mãi trong lòng người.
'Quê hương nghĩa nặng tình sâu… ', đã có ai đó nói như vậy ? Tình yêu quê hương là một trong những cảm xúc sâu sắc, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta. Tình yêu quê hương với Hoàng Cầm là sự nhớ và tự hào ; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng sông Đuống 'Trôi đi một dòng lấp lánh', nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen thiếu nữ, nhớ mùa xuân tưng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ… Nhớ và tự hào về một miền quê giàu đẹp, có màu xanh lúa ngô khoai, nương dâu bãi mía, có tranh Đông Hồ 'Gà lợn nét tươi trong – Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp'. Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày hội non sông, và ngày vui tái ngộ. Bài thơ còn chứa đựng nhiều nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.
Thơ của Hoàng Cầm đong đầy những giai điệu và âm điệu quyến rũ. Có vang vọng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm đẫm tình yêu và tâm hồn quê hương. Con sông Đuống, cô gái 'mỉm cười như mùa thu tỏa nắng'… là của riêng Hoàng Cầm.
Nhưng lạ thay, kỳ diệu thay, những người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ vừa qua đã tìm thấy một phần bóng hình quê hương của họ và những nỗi lòng, tình thương, ký ức của mình trong tuyệt phẩm thơ 'Bên kia sông Đuống'. Thơ hay vì thế mà mang đến cho chúng ta 'Sự đồng cảm nhiệm màu' ấy.
Khám phá những bài soạn hữu ích để nâng cao kiến thức môn Ngữ Văn lớp 12
- Thảo luận về một quan điểm về văn học, lớp 12
- Làm bài tập về Việt Bắc
Việt Bắc đồng nghĩa với một bài học đặc biệt trong Tuần 8 của chương trình học theo Sách Giáo Khoa Ngữ Văn 12, học sinh cần Làm bài tập về Việt Bắc, đọc trước nội dung và đối mặt với câu hỏi trong Sách Giáo Khoa.