Tuyên truyền và tổ chức các hoạt động nhân dịp 76 năm Ngày Thương binh - Liệt sỹ (27/7/1947 - 27/7/2023) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, nhằm thúc đẩy phong trào đền ơn đáp nghĩa và hỗ trợ người có công với cách mạng.
Mục tiêu của các sự kiện nhân kỷ niệm 76 năm Ngày Thương binh Liệt sỹ là lan tỏa tinh thần biết ơn và tôn vinh lòng dũng cảm của những chiến sĩ hi sinh vì tổ quốc.
II. Nguyên nhân và ý nghĩa của việc tổ chức Ngày Thương binh Liệt sỹ
1. Nguyên cơ ra đời
Sau thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (hiện là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) mới chỉ mới ra đời đã phải đối mặt với cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Với tinh thần '... hy sinh tất cả, nhưng không bao giờ chấp nhận mất nước, không bao giờ chịu làm nô lệ', quân và dân ta đã dũng cảm chiến đấu chống lại kẻ xâm lược. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến gay gắt chống lại thực dân Pháp, nhiều đồng bào, chiến sỹ đã hy sinh trên chiến trường. Với truyền thống 'uống nước nhớ nguồn', 'đền ơn đáp nghĩa', Đảng, Chính phủ, Bác Hồ và nhân dân đã dành tình yêu thương cho những chiến sỹ và đồng bào hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ bị thương đã ra đời ở Thuận Hóa (Bình Trị Thiên), sau đó lan rộng ra Hà Nội và nhiều nơi khác... Sau đó, Hội được đổi tên thành Hội giúp binh sĩ bị thương. Ở Trung ương, Tổng Hội được thành lập và Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch danh dự của Tổng Hội.
Ngày 28-5-1946, Hội giúp binh sĩ bị thương tổ chức một buổi nói chuyện quan trọng tại Nhà hát Lớn Hà Nội để kêu gọi mọi người tham gia Hội và tích cực giúp đỡ các chiến sỹ bị thương, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tham dự buổi họp.
Ngày 17-11-1946, cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Hội Liên Hiệp Quốc dân Việt Nam đã tổ chức lễ khai mạc chiến dịch 'Mùa đông binh sỹ', bắt đầu cuộc vận động này trên toàn quốc để giúp đỡ binh sỹ trong mùa đông lạnh giá. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tham dự buổi lễ và Người đã cởi chiếc áo mình để tặng cho binh sỹ.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, vào ngày 19-12-1946, theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã đồng lòng đứng lên chiến đấu với tinh thần 'Quyết tử cho Tổ quốc, quyết sinh cho độc lập'. Số người bị thương và hy sinh trong cuộc chiến gia tăng, đời sống của các chiến sĩ, đặc biệt là những người bị thương, gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Đối mặt với tình hình trên, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều quyết định quan trọng về công tác thương binh, liệt sỹ, đóng góp vào việc ổn định đời sống tinh thần và vật chất cho thương binh, gia đình liệt sỹ.
Ngày 16-2-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định về chế độ hưu bổng, thương tật và tiền túng tử binh. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên nhấn mạnh vị trí quan trọng của công tác thương binh, liệt sỹ trong cuộc chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sỹ.
Tháng 6-1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin Tuyên truyền và một số địa phương đã tụ họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để thảo luận về công tác thương binh, liệt sỹ và thực hiện Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc chọn một ngày để tổ chức ngày Thương binh, Liệt sỹ. Tại cuộc họp này, các đại biểu đã nhất trí chọn ngày 27 tháng 7 là ngày 'Thương binh, Liệt sỹ toàn quốc'. Từ đó, hàng năm vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gửi thư, quà thăm hỏi, động viên, nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sỹ. Đặc biệt, sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác thương binh, liệt sỹ.
Từ tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định thay đổi 'Ngày Thương binh toàn quốc' thành 'Ngày Thương binh, Liệt sỹ' nhằm ghi nhận những hy sinh lớn lao của nhân dân và chiến sĩ cả nước cho chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.
Sau khi miền Nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất, theo Chỉ thị 223/CT-TW ngày 8-7-1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ năm 1975, ngày 27 tháng 7 hàng năm chính thức trở thành “Ngày Thương binh, Liệt sỹ” của toàn quốc.
Mỗi năm khi đến ngày “Thương binh, Liệt sỹ”, đặc biệt là vào các kỷ niệm hàng năm, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lại tổ chức nhiều hoạt động ý nghĩa, đầy tình cảm để chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, và những người có công với cách mạng.
2. Ý nghĩa của Ngày Thương binh, Liệt sỹ
Ngày Thương binh, Liệt sỹ mang ý nghĩa lịch sử, chính trị, và xã hội sâu sắc, đó là:
Truyền thống “hiếu nghĩa bác ái”, lòng quý trọng và biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với những người đã hy sinh, cống hiến cho độc lập, tự do và thống nhất của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; qua đó thúc đẩy tinh thần yêu nước, củng cố và đẩy mạnh niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Tôn vinh những anh hùng, liệt sỹ, thương binh và những người có công; khẳng định sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân là không thể đo lường. Việc chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và những người có công là vinh dự, là trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ chức chính trị - xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và mai sau.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trân trọng đánh giá cao những cống hiến, hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sỹ đối với Tổ quốc; đồng thời cũng luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ cách mạng đối với thương binh, liệt sỹ và những người có công với cách mạng.
II. Một số thành tựu nổi bật trong công tác thương binh, liệt sỹ và những người có công với cách mạng 74 năm qua.
1. Xây dựng và thực hiện thống nhất trong cả nước một hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng
- Kể từ Sắc lệnh số 20/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành ngày 16/2/1947 đặt “chế độ hưu bổng thương tật và tiền tuất từ sĩ” đến nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng đã được nghiên cứu xây dựng, ban hành tương đối toàn diện, đầy đủ và kịp thời, bảo đảm chất lượng để từng bước cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, là cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân; cơ bản đáp ứng yêu cầu đề ra.
- Nhiều vấn đề không hợp lý từ quá khứ cũng như vấn đề mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế và những thừa kế về chính sách sau chiến tranh, như vấn đề xác nhận liệt sỹ, thương binh; chính sách ưu đãi đối với thanh niên xung phong, những người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; chính sách ưu đãi về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, chế độ trợ cấp đối với một số đối tượng người có công với cách mạng được quan tâm, giải quyết một cách hiệu quả.
- Việc xác nhận và giải quyết chế độ ưu đãi đối với người có công đạt được kết quả tích cực. Đến nay, trên toàn quốc đã xác nhận khoảng 9 triệu người có công, trong đó:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01-01-1945: gần 9.000 người.
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01-01-1945 đến trước tổng khởi nghĩa 19/8/1945: 16.500 người.
+ Liệt sỹ: gần 1.2 triệu người; thân nhân liệt sỹ gần 500.000 người.
+ Mẹ Việt Nam anh hùng: trên 117.000 người.
+ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động: gần 1.300 người.
+ Thương binh và người hưởng chính sách như thương binh: gần 600.000 người; thương binh loại B: trên 40.000 người.
+ Bệnh binh: gần 185.000 người.
+ Người tham gia kháng chiến và gia đình của họ bị nhiễm chất độc hóa học: gần 312.000 người.
+ Những người tham gia hoạt động cách mạng, kháng chiến bị địch bắt tù, đày: gần 111.000 người.
+ Những người có công hỗ trợ cách mạng: 1.897.000 người.
+ Những người tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ Quốc tế: gần 4,1 triệu người.
- Hiện nay, trên toàn quốc có hơn 1,4 triệu người có công và gia đình đang được hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng; sau khi được rà soát, đa số người có công đã nhận đủ các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Theo kết quả rà soát năm 2014 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong tổng số 2.070.842 đối tượng được rà soát, có 1.982.769 trường hợp (chiếm 95,75%) được hưởng đầy đủ chế độ; chỉ có 86.201 trường hợp, chiếm 4,16% tuyên bố là hưởng chưa đủ; 1.872 trường hợp, chiếm 0,09% nhận sai chính sách.
2. Phong trào chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng phát triển sâu rộng từ Trung ương đến địa phương và đã đạt được hiệu quả thiết thực, thể hiện tình cảm, trách nhiệm và truyền thống văn hóa đẹp của dân tộc
- Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đã tích cực triển khai và thực hiện có hiệu quả các phong trào chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công thông qua: Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa, vườn cây tình nghĩa, sổ tiết kiệm tình nghĩa, chăm sóc bố, mẹ liệt sỹ già yếu cô đơn, con liệt sỹ mồ côi, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Từ năm 2007 đến nay, cả nước đã đóng góp xây dựng Quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa” hơn 2.000 tỷ đồng, trong đó, quỹ Trung ương hơn 1.000 tỷ đồng, quỹ địa phương hơn 500 tỷ đồng; xây dựng gần 2.000 nhà tình nghĩa, sửa chữa gần 500 nhà tình nghĩa với tổng trị giá gần 1.500 tỷ đồng; tặng gần 2.000 sổ tiết kiệm tình nghĩa trị giá gần 1.000 tỷ đồng.
Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg, Chính phủ đã cấp cho các địa phương trên 2.450 tỷ đồng để hỗ trợ cho 80.000 hộ gia đình người có công khó khăn về nhà ở; 100% các mẹ Việt Nam anh hùng được các đơn vị nhận phụng dưỡng; 98% xã, phường làm tốt công tác Thương binh - Liệt sỹ, 97% người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống người dân nơi cư trú.
- Bản thân thương binh, bệnh binh, gia đình chính sách, người có công với cách mạng cũng nỗ lực phấn đấu vươn lên trở thành những tấm gương tiêu biểu, điển hình nhân tố mới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong khoảng thời gian vừa qua, toàn bộ cộng đồng đã nỗ lực, đoàn kết để tìm kiếm và an táng kính mộ những anh hùng liệt sỹ; lễ tang được tổ chức trọng thể tại các nghĩa trang trên khắp đất nước.
- Việc xây dựng, bảo dưỡng các khu nghĩa trang, các công trình tưởng niệm danh dự liệt sỹ đã nhận được sự quan tâm và đầu tư kỹ lưỡng từ các cấp, các ngành và đã mang lại những thành tựu đáng kể.
III. Khai thác thành tựu đã đạt được, vượt qua những hạn chế tồn đọng, tiếp tục đẩy mạnh công tác chăm sóc thương binh, người có công với cách mạng trong thời kỳ hiện nay
Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Thực hiện một cách toàn diện chính sách chăm sóc những người có công dựa trên việc huy động mọi nguồn lực xã hội kết hợp với nguồn lực của Nhà nước; đảm bảo người có công có mức sống từ trung bình trở lên”. Để đạt được mục tiêu này, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp sau:
- Các cấp, các ngành cần chỉ đạo thực hiện hiệu quả các chính sách ưu đãi kinh tế - xã hội đối với những người có công, đặc biệt là quan tâm đến công tác giáo dục đào tạo, đào tạo nghề, tạo việc làm cho những người có công và con cháu của họ; hỗ trợ đầy đủ về vật chất và tinh thần đối với các đối tượng chính sách, đặc biệt là những đối tượng vẫn đang gặp nhiều khó khăn, để đến năm 2020 đạt 100% hộ gia đình của người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi họ sinh sống. Đồng thời, tiến hành rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chính sách ưu đãi đối với những người có công sao cho phù hợp với tình hình của đất nước. Thực hiện một cách dân chủ, công khai, minh bạch mọi chính sách liên quan đến người có công.
- Nâng cao chất lượng công tác tu bổ, tôn tạo các nghĩa trang liệt sỹ và công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sỹ, xác định danh tính liệt sỹ, thông báo và tạo điều kiện cho các gia đình người thân đến thăm viếng. Tiến hành sơ tổng kết, rút kinh nghiệm, phát hiện và nhân rộng những tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong công tác thương binh, liệt sỹ và người có công; qua đó thúc đẩy các phong trào 'Đền ơn đáp nghĩa', “Toàn dân chăm sóc người có công với nước” phát triển rộng khắp, đi vào chiều sâu và đem lại hiệu quả thiết thực; đồng thời biểu dương những tấm gương thương binh, bệnh binh và người có công tiêu biểu.
- Đẩy mạnh và thực hiện tốt việc lập, xét duyệt hồ sơ thường xuyên; tập trung giải quyết hồ sơ đề nghị xác nhận người có công còn tồn đọng, nhất là những hồ sơ đã được xác lập trong những giai đoạn trước đây nhưng chưa được xem xét giải quyết do chưa bảo đảm thủ tục, coi đây là nhiệm vụ quan trọng.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công tiếp tục phát huy ý chí tự lực tự cường, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống và tham gia các hoạt động xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng quê hương đất nước với phương châm “Nhà nước, nhân dân và những người được hưởng chính sách ưu đãi cùng phấn đấu”.
- Đẩy mạnh tuyên truyền truyền thống yêu nước và đạo nghĩa 'Uống nước nhớ nguồn' trong các tầng lớp nhân dân, nhất là trong thế hệ trẻ, làm cho mọi người nhận thức sâu sắc và trân trọng tri ân công lao to lớn của các anh hùng - liệt sỹ và những người có công với nước; biến nhận thức và tình cảm tốt đẹp đó thành hành động thiết thực góp phần thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng.