Đề bài
Em hãy viết báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ trung đại đã học.
Phương pháp giải - Xem chi tiết
- Xác định yêu cầu cần thực hiện của bài tập, xem lại phần Kiến thức ngữ văn đọc lại các bài thơ trung đại đã học chú ý đến các yếu tố như thể loại thể thơ, bố cục các bài thơ, số câu trong một bài, số từ trong một câu,....
- Đọc lại các bài thơ Đường luật trong bài 6 và các bài thơ Đường luật đã học ở trung học cơ sở sưu tầm một số ý kiến kiến thức bên ngoài về thơ Đường Luật.
Lời giải chi tiết
Dàn ý
1. Mở đầu
- Giới thiệu đề tài nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ trung đại đã học.
- Trình bày lý do, mục đích, và phương pháp nghiên cứu.
+ Lí do: Bản thân cảm thấy thích thú với thơ Đường Luật sau khi được học và khám phá qua một số bài thơ trung đại.
+ Mục đích: Giúp mọi người hiểu rõ và hứng thú khi tiếp cận với thơ Đường Luật.
+ Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện nghiên cứu thông qua việc tìm hiểu qua các tài liệu sách vở.
2. Nội dung
- Giới thiệu một số bài thơ Đường Luật đã học hoặc đã biết đến.
- Phân tích cấu trúc tổng quan của một bài thơ Đường Luật qua một số tác phẩm đã tìm hiểu.
- Giới thiệu về các quy luật về vần, đối, niêm, luật trong thơ Đường Luật.
3. Tóm tắt và kết luận
Tóm lược và tổng hợp các vấn đề đã trình bày.
Bài làm của em
PGS - TS Lã Nhâm Thìn đã từng nhận xét: “Thơ Nôm Đường luật là một trong những thể loại độc đáo và đạt được nhiều thành tựu lớn nhất của văn học Việt Nam. Có nhiều tác giả, cũng có rất nhiều những tác phẩm văn học đỉnh cao thuộc về thơ Nôm Đường luật”. Thơ Nôm Đường luật thực sự là một thể loại đặc biệt, luôn có sức hấp dẫn đặc biệt khiến nhiều người muốn tìm hiểu sâu hơn về nó.
Thơ Đường luật, hay còn gọi là thơ luật đường, là một dạng thơ đường có các quy luật được xuất phát từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Đây là một trong những dạng thơ phát triển mạnh mẽ, không chỉ tại quê hương của nó mà còn được biết đến và tôn vinh ở nhiều nơi khác. Thơ Đường luật là tinh hoa của thi ca Trung Hoa và được coi là biểu tượng tiêu biểu nhất của thơ Đường.
Luật thơ Đường dựa trên hệ thống thanh bằng và thanh trắc, sử dụng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây dựng các quy luật. Quy luật này bao gồm các loại thanh bằng như dấu huyền hoặc không dấu và các loại thanh trắc như sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên sử dụng thanh bằng thì được gọi là bài thơ có 'luật bằng'; nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên sử dụng thanh trắc thì được gọi là bài thơ có 'luật trắc'. Trong một câu thơ, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia.
Ví dụ: xét câu 'Bước tới đèo Ngang bóng xế tà' trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ 'tới' (thứ 2) và 'xế' (thứ 6) giống nhau về thanh trắc, vì thế đây là một ví dụ về bài thơ thất ngôn bát cú luật trắc.
Quy tắc luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể được mô tả như sau: nếu chỉ vần bằng bằng chữ 'B', vần trắc bằng chữ 'T', và những vần không có luật thì để trống, thì luật áp dụng cho các chữ thứ 2-4-6-7 như sau:
1. Quy tắc luật bằng trắc
Trong thơ Đường luật, quy luật căn cứ vào thanh trắc và thanh bằng, sử dụng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng quy luật. Thanh bằng bao gồm các chữ không có dấu hoặc dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu khác như sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải 'đối' nhau và hai câu 5, 6 cũng 'đối' nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi là 'thất đối'.
Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Một vài chú đứng lom khom dưới núi
Vài nhà lác đác bên sông rợ,
'Lom khom' so với 'lác đác' (hình thái và số lượng - thực ra hai câu này chưa hoàn toàn đối), 'dưới núi' so với 'bên sông' (vị trí địa hình), nhưng nếu kết hợp hình ảnh từ hai câu này, 'lom khom dưới núi' và 'lác đác bên sông', vì một câu miêu tả cảnh động, còn một câu miêu tả cảnh tĩnh, nên sự tương phản có thể chấp nhận được. Một điểm cần chú ý là từ 'lom khom' ám chỉ hình dạng của con người trong câu trên, và 'lác đác' chỉ số lượng trong câu dưới. Hai phần cuối: 'tiều vài chú' so với 'rợ mấy nhà' (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập ở hai phần cuối có thể xem như hoàn chỉnh. Hãy xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối trong thơ.
Nhị tứ lục phân minh (Câu 2, 4, 6 phải đối ý).
2. Niêm
Các dòng trong một bài thơ Đường luật giống nhau về luật thì được gọi là 'những dòng niêm với nhau' (niêm = giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai dòng thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ hai trong cả hai dòng cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những dòng theo nguyên tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không niêm thì bài đó bị gọi là 'thất niêm'.
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
Dòng 1 niêm với dòng 8
Dòng 2 niêm với dòng 3
Dòng 4 niêm với dòng 5
Dòng 6 niêm với dòng 7
Còn đối với Nguyên tắc niêm ở thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Dòng 2 niêm với dòng 3, dòng 4 niêm với dòng 1. Chẳng hạn với luật vần bằng:
- B - T - B B
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
- B - T - B T
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
Ví dụ: Trong bài thơ Qua đèo Ngang, xét hai câu thứ 2 và thứ 3:
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
3. Vần
Vần là những từ có cách phát âm giống nhau hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được sử dụng ở cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là 'vần với nhau'. Nếu một bài thơ Đường luật mà từ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi là 'thất vần'.
Chữ có cách phát âm giống nhau hoàn toàn được gọi là 'vần chính', những từ có cách phát âm gần giống nhau được gọi là 'vần thông'. Hầu hết thơ Đường luật sử dụng vần thanh bằng, tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ.
Ví dụ: Xét hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Hai từ 'tà' và 'hoa' được coi là vần với nhau, nhưng ở đây là 'vần thông' vì chỉ có cách phát âm gần giống nhau.
4. Bố cục
Bố cục của một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia thành 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. 'Đề' bao gồm 2 câu đầu, trong đó câu đầu tiên được gọi là câu phá đề và câu thứ 2 được gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. 'Thực' bao gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. 'Luận' bao gồm 2 câu tiếp theo, bình luận về 2 câu thực. 'Kết' là 2 câu cuối cùng, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu số 7 là câu 'thúc' (hoặc 'chuyển') và câu cuối cùng là câu 'hợp'. Có người cho rằng hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khái quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao.
Nguyên tắc Đối ý: Trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại đường luật, ý nghĩa của câu thứ 3 và câu thứ 4 phải đối nhau, cũng như cả hai câu thứ 5 và thứ 6 cũng phải đối nhau. Đối chính là sự tương phản về nghĩa của từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và bao gồm cả sự tương đương trong cách tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối với động từ, danh từ với danh từ. Đối cảnh là cảnh đội đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới… Nếu trong một bài thơ đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau hoặc các câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi là “thất đối”.
Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm, ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa, thí sinh thường phải làm thơ thất ngôn bát cú.
Tại quê hương của thơ Đường cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất. Lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không sử dụng khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên. Tuy nhiên, cách phân chia này cũng không khác biệt nhiều so với cách phân chia Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, đa phần tài liệu ở Việt Nam vẫn tuân theo cách chia Đề, Thực, Luận, Kết. Vì vậy, khi học hoặc tiếp cận thơ Đường luật.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho thơ thất ngôn bát cú. Theo quan niệm này, việc khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ thường nhấn mạnh về yếu tố thời gian, trong khi bốn câu giữa tập trung vào không gian và tác giả dừng lại để quan sát sự vật.
Cũng cần nhắc đến quan điểm 'Cảnh-Tình' của Kim Thánh Thán khi chia thơ thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, trong đó bốn câu đầu của bài nặng về cảnh và bốn câu cuối nặng về tình.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu không cố tìm quy luật chung về bố cục mà thay vào đó áp dụng quan điểm nghiên cứu từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa. Họ tập trung vào cách phân chia bố cục của từng bài thơ dựa trên mạch cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài.
Khi sáng tác thơ Đường Luật, chúng ta cần tuân thủ niêm luật. Nếu không tuân theo đúng quy tắc, thì dù nội dung bài thơ có hay đến đâu thì cũng không được chấp nhận.