Chứng minh độ hấp dẫn và sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh
Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh
- Giới thiệu về tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập
- Nêu vấn đề cần thảo luận: Sức hấp dẫn và tính thuyết phục từ giá trị lịch sử, giá trị văn học và phương pháp lập luận.
2. Thân bài
- Về ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập:
+ Là một tài liệu lịch sử quan trọng, Tuyên ngôn Độc lập đã tổng kết một thời kỳ đầy thách thức nhưng cũng đầy bản lĩnh trong cuộc chiến đấu cho độc lập và đã mạnh mẽ khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Tuyên ngôn Độc lập
+ Tuyên ngôn Độc lập là niềm tự hào, động viên cho toàn thể nhân dân Việt Nam vào thời điểm đó và các thế hệ sau này về quyền tự do, độc lập và sự sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ quyền tự do, độc lập đó.
- Về giá trị văn học: Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm văn học bất hủ với lập luận chặt chẽ, logic sắc sảo, ngôn ngữ hùng hồn.
+ Ngay từ đoạn mở đầu của bản tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn những 'lời bất hủ' từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, tạo nền tảng pháp lý vững chắc về quyền tự do của dân tộc Việt Nam.
+ Để phá vỡ những lập luận của thực dân Pháp rằng Việt Nam là một thuộc địa và rằng Pháp có quyền trở lại Việt Nam, bản tuyên ngôn đã đưa ra những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể phủ nhận để kết tội cho hành động xâm lược của thực dân Pháp, khẳng định bản chất phản động, đối lập với chính sách phát xít của thực dân Pháp tại Đông Dương, đồng thời khẳng định vai trò của Việt Minh trong cuộc chiến đấu chống phát xít Nhật.
+ Bản tuyên ngôn vang lên với giọng điệu hào hứng, tràn đầy niềm tin, thể hiện ý chí, quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập của toàn bộ dân tộc.
3. Kết bài
- Khẳng định ảnh hưởng lớn lao của bản Tuyên ngôn Độc lập đối với lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và vị trí của tác phẩm trong di sản văn học dân tộc.
- Chia sẻ những cảm nhận sâu sắc về tác phẩm.
Bài mẫu
Bài tham khảo số 1
Bài làm
Trong văn học Việt Nam, ít có tác phẩm nào hàm chứa nhiều giá trị như Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong rất nhiều giá trị đó, người ta nhắc nhiều đến giá trị sử học và văn học. Nhìn từ những góc độ khác nhau, hai giá trị này hoà quyện, xuyên thấm. Trên cơ sờ thực tiễn và lập luận chặt chẽ đã tạo nên sức hấp dẫn, sức thuyết phục cho văn bản.
Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm chính luận. Văn chính luận thuyết phục người ta bằng những lí lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch bằng những lí lẽ. Sức mạnh của nó là ờ những lí lẽ đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự thuyết phục bằng lí lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên ngôn Độc lập theo quan niệm đó.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyên thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là ba cuộc cách mạng ngang băng nhau, ba nên độc lập ngang bằng nhau, ba bản tuyên ngôn ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa, khi mờ đầụ tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lê, Lí, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc.
Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bấy giờ, vấn đề hàng đầu là vấn đề độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập đã mờ đầu như thế: "Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng". Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới, sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Ý kiến "suy rộng ra" ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hoá nước ngoài đã viết: "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ờ chỗ Người đã phát triển qụyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình". (Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới - NXB Sự thật. H 1979). Vậy thì có thể xenn cái luận điểm "suy rộng ra” kia là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX?
Những kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe doạ nền độc lập củạ dân tộc khi bản Tuyên ngôn ra đời là bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập sơ sở pháp lí của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân muốn "hợp pháp hoá" cuộc xâm lược củạ chúng trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Bản Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kì, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc bằng thuốc phiện và rượu cồn, bóc lột vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng gây ra nạn đói khiến "từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai mươi triệu đồng bào ta bị chết đói". Thực dân Pháp muốn kể công "bảo hộ" Đông Dương ư? Thì bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì "trong 5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật". Vì thế Người viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy lại hai chữ "sự thật": "Sự thật là..." "sự thật là..." vả cuối cùng "nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập"... Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhằm tăng thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn. Đấy là hệ thống li lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực dân. Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hường độc lập, tự do hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lí lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định: Nếu thực dân Pháp, có tội phản bội Đồng Minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng ở hành động "Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy chúng còn nhẫn tâm giết một số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng" thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: "Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ". Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đă đứng hẳn về phe Đồng Minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế. "Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!"
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có thể gọi lả bản "hùng văn”. Sức hấp dẫn và thuyết phục của văn bản đồng thời cũng tạo nên sức sống vĩnh hằng cho văn bản. Hơn thế, đằng sau những lập luận chặt chẽ, bằng chứng thuyết phục tình cảm nồng hậu của người viết ta nhận ra một tư tưởng chính trị, một tầm văn hoá lớn, nhận ra may mắn, hạnh phúc lớn lao của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam vì có một chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều đó đã được Thủ tướng Phạm Vãn Đồng nói lên: “Dân tộc Việt Nam đã sinh ra Người và Người đã làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam".
Xem bài tham khảo khác tại đây: