Để hỗ trợ các bạn học sinh có thêm nhiều bài văn tham khảo về văn nghị luận, chúng tôi xin giới thiệu bài văn mẫu lớp 12: Chứng minh tính hấp dẫn và sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập.
Tài liệu này bao gồm dàn ý chi tiết và 4 bài văn mẫu chứng minh sức hấp dẫn và thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập, đã được tổng hợp từ những bài văn hay nhất của các bạn học sinh giỏi trên toàn quốc. Xin mời quý thầy cô và các bạn tham khảo tài liệu này.
Dàn ý chứng minh sức hấp dẫn và thuyết phục của Tuyên ngôn độc lập
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh
- Giới thiệu về tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập
- Đặt vấn đề: Sức hấp dẫn và thuyết phục qua giá trị lịch sử, văn học và lập luận.
II. Nội dung chính:
- Ý nghĩa lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập:
+ Là một biểu hiện lịch sử quan trọng, Tuyên ngôn Độc lập ghi nhận một giai đoạn đau buồn nhưng vô cùng dũng cảm trong cuộc đấu tranh vì độc lập và khẳng định mạnh mẽ quyền tự do của Việt Nam.
+ Tuyên ngôn Độc lập đã vinh danh dân tộc Việt Nam - một dân tộc nhỏ bé nhưng có tình yêu nước, ý chí mạnh mẽ và lòng dũng cảm trước thế giới.
+ Tuyên ngôn Độc lập là nguồn cảm hứng, sức mạnh cho toàn bộ nhân dân Việt Nam ở thời điểm đó và các thế hệ tương lai, về tinh thần chiến đấu, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ quyền tự do và độc lập.
- Giá trị văn học của Tuyên ngôn Độc lập: Là một tác phẩm văn học vĩ đại với lập luận logic, ngôn từ uy nghiêm và hùng vĩ.
+ Bắt đầu với lời trích dẫn 'bất hủ' từ Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, Chủ tịch Hồ Chí Minh cơ sở hóa rõ quyền độc lập của Việt Nam.
+ Để phản bác các lập luận thuộc địa của thực dân Pháp và bảo vệ quyền độc lập của Việt Nam, bản tuyên ngôn đã đưa ra lập luận mạnh mẽ và bằng chứng rõ ràng về tội ác của thực dân Pháp, đồng thời khẳng định vai trò quyết định của Việt Minh trong cuộc chiến chống phát xít Nhật.
+ Bản tuyên ngôn phát ra với tinh thần hào hùng, đầy niềm tin, thể hiện quyết tâm và ý chí của toàn dân bảo vệ quyền tự do và độc lập.
III. Kết luận:
- Nhấn mạnh tác động to lớn của Tuyên ngôn Độc lập đối với lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX và vị trí quan trọng của tác phẩm trong văn học dân tộc.
- Tường thuật về ấn tượng sâu sắc về tác phẩm.
Chứng minh sức hấp dẫn và thuyết phục của Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 1
'Tuyên ngôn độc lập' của Việt Nam, được soạn thảo và đọc công khai ngày 2/9/1945, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ ba của dân tộc sau 'Nam quốc sơn hà' của Lý Thường Kiệt và 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi. Bản tuyên ngôn này không chỉ có ý nghĩa chính trị, lịch sử mà còn mang giá trị văn học, nghệ thuật. Đặc biệt, nó thu hút và thuyết phục bởi sức mạnh của lập luận và ngôn từ hùng hồn.
'Tuyên ngôn độc lập' là một tác phẩm xuất sắc trong văn học dân tộc, với hệ thống lập luận chặt chẽ, rõ ràng. Tác giả Hồ Chí Minh đã sử dụng lập luận sắc bén, chặt chẽ để thuyết phục độc giả. Từ cơ sở pháp lý đến cơ sở thực tiễn, mọi lập luận đều được đề cập một cách kỹ lưỡng, tạo nên một bức tranh toàn diện, thuyết phục về quyền tự do, độc lập của dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu bản tuyên ngôn bằng việc trích dẫn lời tuyên bố của người Pháp và người Mỹ về quyền tự do, bình đẳng của con người. Việc này nhấn mạnh sự tự tin, tự hào của dân tộc Việt Nam trong cuộc cách mạng, đặt nền móng cho sự thuyết phục của tác phẩm ngay từ đầu.
Trong phần tố cáo, Hồ Chí Minh sử dụng những lời tố cáo kèm chứng cứ lịch sử không thể chối cãi để khẳng định tội ác của thực dân Pháp với nhân dân Việt Nam. Nếu Pháp tuyên bố có công khai hóa, bản tuyên ngôn rõ ràng chỉ ra rằng Pháp không có công mà chỉ có tội: tước đoạt quyền tự do dân chủ, chia rẽ dân tộc, thi hành chính sách ngu dân, phong tỏa nền kinh tế, đặt hàng trăm loại thuế... Nếu Pháp nói lên điều này như một cách bảo hộ, bản tuyên ngôn chỉ ra rằng Pháp đã mở cửa nước ta để rước Nhật, trong năm năm Pháp đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Để ủng hộ lời tố cáo, tác giả còn kể về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như: truyền thống nhân đạo (cứu người Pháp khỏi trại giam Nhật), truyền thống anh hùng (không chỉ kiên cường chống Pháp mà còn kiên trì kháng Nhật). Điều này cho thấy dân tộc Việt Nam đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm và chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ để thiết lập một chế độ mới, khẳng định quyền tự do và độc lập của Việt Nam. Cuối cùng, ở phần tuyên bố, tác giả thay mặt Chính phủ Lâm thời tuyên bố phủ nhận hoàn toàn vai trò của Pháp trên đất nước Việt Nam bằng cách thoát ly hoàn toàn khỏi quan hệ thực dân với Pháp, hủy bỏ tất cả các hiệp ước Pháp ký một mình, và các đặc quyền của Pháp trên Việt Nam. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra lập trường của dư luận thế giới thông qua việc nhấn mạnh tinh thần độc lập và dân chủ đã được thế giới công nhận thông qua các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn để khẳng định rằng thế giới không thể không công nhận quyền tự do của dân tộc Việt Nam. Cuối cùng, bằng lời tuyên bố và tuyên thệ, tuyên bố về độc lập và tư cách độc lập của dân tộc, thề hy sinh tất cả để bảo vệ nền tự do, độc lập ấy.
'Tuyên ngôn độc lập' là một ví dụ điển hình cho phong cách văn nghị luận của Hồ Chí Minh, kết hợp giữa lập luận sắc sảo và chứng cứ xác đáng đã mang lại giá trị thuyết phục cao cho văn bản. Sử dụng ngôn từ mang tính chính trị đã thể hiện lập trường tư tưởng, tầm nhìn chiến lược, và từ ngữ giàu biểu cảm thể hiện lòng yêu nước sâu sắc. Việc kết hợp giữa lý trí và tình cảm tạo nên sức hấp dẫn của văn bản này.
Chứng minh sức hấp dẫn và thuyết phục của Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 2
Trong văn học Việt Nam, hiếm có tác phẩm nào mang nhiều giá trị như Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên nền lập luận chặt chẽ và thực tiễn, tạo ra sức hấp dẫn và thuyết phục cho văn bản.
Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm chính luận. Văn chính luận thuyết phục bằng lý lẽ, và sức mạnh của nó nằm ở những lập luận chặt chẽ, không thể chối cãi. Sử dụng hình ảnh và tình cảm chỉ phụ giúp thêm cho lập luận bằng lý lẽ. Đó là cái hay của Tuyên ngôn Độc lập theo quan điểm của nhiều người.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam bằng những lời lẽ của người Mỹ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên ngôn độc lập và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền đã làm rạng danh cho tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách diễn đạt, cách viết như vậy là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mỹ. Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm bẩn lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng lớn lao của nước Pháp, nước Mỹ, nếu muốn tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra, khi mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam bằng việc nhắc đến hai bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của hai nước lớn như thế, cũng có nghĩa là ba cuộc cách mạng ngang tầm nhau, ba nền độc lập ngang tầm nhau, ba bản tuyên ngôn ngang tầm nhau. Một cách kín đáo hơn, bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lê, Lý, Trần của Đại Việt với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc phong.
Nhưng để đối thoại với bọn xâm lược, vấn đề hàng đầu là vấn đề độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên ngôn Độc lập đã bắt đầu như thế: 'Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng'. Tạo hoá ban cho họ những quyền không thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Mở rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới, sinh ra đều bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do'. Quan điểm 'mở rộng ra' ấy quả là một đóng góp ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một tác giả nước ngoài đã viết: 'Đóng góp nổi tiếng của ông Hồ Chí Minh là ở chỗ ông đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định vận mệnh của mình'. (Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới - NXB Sự thật. H 1979). Vậy thì có thể xem cái quan điểm 'mở rộng ra” kia là lời ra lệnh khởi đầu cho cơn bão cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới vào nửa sau thế kỷ XX?
Những kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa độc lập của dân tộc khi bản Tuyên ngôn ra đời là bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải thông qua một cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đấu ấy cần sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Để làm được điều đó, cần phải thiết lập cơ sở pháp lý của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của chúng ta và vạch trần sự xảo trá của bọn thực dân muốn 'hợp pháp hóa' cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên ngôn đã đáp ứng yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận cực kỳ chặt chẽ và đầy đanh thép.
Bản Tuyên ngôn đã phơi bày những hành động trái với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: đàn áp mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ đất nước, làm đổ máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc bằng ma túy và rượu cồn, bóc lột đến tận xương tuỷ, cuối cùng gây ra nạn đói khiến 'từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai mươi triệu đồng bào ta bị chết đói'. Thực dân Pháp muốn kể công 'bảo hộ' Đông Dương ư? Thì bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ rằng đó không phải là công mà là tội vì 'trong 5 năm họ đã bán nước ta hai lần cho Nhật'. Vì vậy, Người viết Tuyên ngôn luôn luôn nhấn mạnh hai chữ 'sự thật': 'Sự thật là...' 'sự thật là...' và cuối cùng 'nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã tạo nên một quốc gia tự do độc lập'... Đó là những điệp khúc tiếp nối nhằm tăng thêm uy lực phán đoán của bản Tuyên ngôn. Đó là hệ thống lập luận phủ nhận luận điệu của bọn đế quốc, thực dân. Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta xứng đáng được hưởng độc lập, tự do hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lập luận không phải để bác bỏ mà để khẳng định: Nếu thực dân Pháp, có tội phản bội Đồng Minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam, đại diện là Việt Minh, đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành lại chủ quyền từ tay phát xít Nhật. Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng trong hành động 'Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy họ còn tàn ác giết một số tù nhân chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng' thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay cả với kẻ thù đã thất bại: 'Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên giới, cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà tù của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ'. Một dân tộc đã phải chịu bao nhiêu đau khổ dưới sự áp bức của thực dân tàn bạo, đã dũng cảm chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng về phe Đồng Minh chống phát xít, đã ca ngợi tinh thần nhân đạo, bác ái như thế. 'Dân tộc đó xứng đáng được tự do! Dân tộc đó xứng đáng được độc lập!'
Tuyên bố Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể được coi là một tác phẩm 'văn hùng'. Sức thu hút và sức thuyết phục của văn bản không chỉ tạo ra sức sống bền vững cho nó mà còn gợi lên một tư tưởng chính trị lớn và một tầm văn hóa lớn, cho thấy niềm vui, hạnh phúc lớn của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam bởi vì có một Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh: 'Dân tộc Việt Nam đã sinh ra Người và Người đã làm cho danh tiếng của dân tộc Việt Nam trở nên vĩ đại'.
Chứng minh sức hấp dẫn và thuyết phục của Tuyên bố Độc lập - Mẫu 3
Trong cuộc chiến đấu vì độc lập với nhiều gian khổ, phải đối mặt với những kẻ thù vô cùng nguy hiểm, dân tộc ta vẫn kiên cường chiến đấu để giành những chiến thắng lịch sử. Cách mạng tháng Tám đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam, với một văn kiện lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đầy sức thuyết phục. Bản Tuyên bố có thể được coi là kết quả của 'bao nhiêu hi vọng, gắng sức và niềm tin' của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.
Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, người đã soạn thảo và sau đó đọc bản Tuyên bố Độc lập trước 50 vạn đồng bào. Sự kiện trọng đại ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Bản Tuyên bố đã chặn đứng âm mưu tái chiếm Việt Nam của thực dân Pháp, khẳng định chủ quyền và nâng cao địa vị của dân tộc ta trên trường quốc tế. Bản Tuyên bố cũng đã chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, năm năm cướp bóc của phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến. Với ý nghĩa như vậy, bản Tuyên bố đã khai sinh ra một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta.
Bên cạnh những giá trị to lớn đã nói ở trên, bản Tuyên bố còn là một ví dụ xuất sắc của văn chính luận. Nó đã được viết trong một bối cảnh lịch sử căng thẳng để tạo ra một bước ngoặt vĩ đại trong cách mạng Việt Nam, đồng thời là kết quả của khát khao tự do, độc lập cháy bỏng của dân tộc Việt Nam đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc luôn bị sự chinh phục lớn lao của một tác phẩm văn học được kết tinh bởi trí tuệ và tâm huyết của Hồ Chí Minh - Người con ưu tú của dân tộc - và bởi tinh thần chân lý của thời đại. Mọi chân lý đều rất đơn giản. Đây cũng là đặc điểm tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp của bản Tuyên bố Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học đã và đang tồn tại lại có cấu trúc ngắn gọn, súc tích như thế.
Trước hết, văn bản Tuyên ngôn được coi là một tài liệu chính trị quan trọng, nhằm mục đích thời sự và cấp bách, đề cập đến những vấn đề nóng bỏng, đòi hỏi sự ngắn gọn và súc tích để truyền đạt thông tin hiệu quả. Dưới áp lực của hoàn cảnh, tính chất mạch lạc và ngắn gọn sẽ mang lại hiệu quả cao và triệt để. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự ngắn gọn cũng tạo ra sức mạnh, và không phải lúc nào sự cô đọng cũng chứa đựng sức mạnh. Tuyên ngôn Độc lập tập trung vào hai vấn đề chính: từ chối hoàn toàn sự can thiệp của thực dân Pháp và khẳng định quyền độc lập và quyết tâm bảo vệ quyền độc lập đó. Với những mục tiêu này, mỗi ý kiến, mỗi câu từ đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc và ngắn gọn, rõ ràng.
Như đã đề cập trước đó, Tuyên ngôn không chỉ dành cho dân Việt mà còn dành cho thế giới. Đây là tư duy của chúng ta trước kẻ thù, và bản Tuyên ngôn Độc lập bắt đầu bằng việc tham chiếu đến hai tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ, từ đó phát triển ý tưởng về quyền độc lập dân tộc như một sự thực không thể chối cãi. Tuy nhiên, suốt hơn 80 năm, thực dân Pháp đã bỏ qua sự thực này, lợi dụng lời tuyên ngôn về tự do, bình đẳng, và nhân quyền để áp bức dân tộc Việt Nam. Hành động của họ là vi phạm chân lý, đạo đức và công bằng, trái ngược với những gì Cách mạng Pháp đã tuyên bố. Bản Tuyên ngôn không chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp mà còn vạch trần bản chất phản bội của họ, xác nhận một cách rõ ràng quyền tự do và độc lập chính đáng của dân tộc Việt Nam.
Tất cả các lập luận và bằng chứng được sắp xếp một cách chặt chẽ, đanh thép để chống lại các mưu đồ của thực dân và lực lượng đế quốc, bảo vệ chính quyền là vấn đề quan trọng nhất cho sự sống còn của dân tộc. Bản Tuyên ngôn không bắt đầu với việc nhấn mạnh truyền thống chống ngoại xâm mà thay vào đó là những nguyên tắc được nêu ra bởi các nước tư bản, đặc biệt là các nước thuộc phe Đồng minh. Trong lập luận, tác giả không chỉ thể hiện sự tôn trọng đối với thành tựu văn hóa của nhân loại mà còn ép các cường quốc phải nhìn nhận lại và thừa nhận quyền độc lập của Việt Nam. Bằng cách tố cáo thực dân Pháp, tác giả đã tiết lộ năm tội ác chính trị, bốn tội ác kinh tế và hàng loạt hành động phản bội vào những thời điểm cụ thể, không thể chối cãi. Để phá bỏ mọi mơ hồ và những thuyết phục giả dối mà thực dân Pháp đã sử dụng để quay trở lại chi phối đất nước, tác giả đã nêu rõ: 'Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật xâm lược Đông Dương để mở thêm căn cứ chiến đấu cho Đồng minh, thì thực dân Pháp đã đầu hàng, mở cửa nước ta để Nhật xâm nhập. (...) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã là thuộc địa của Nhật, không phải của Pháp nữa. (...) Sự thật là dân ta đã giành lại Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ tay Pháp.'
Với sức mạnh của một trí tuệ vượt trội và sự hiểu biết sâu sắc về tình hình chính trị, bằng các bằng chứng chi tiết và xác thực, Tuyên ngôn thực sự là một tuyên bố đanh thép, lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp. Tuy nhiên, sức mạnh của Tuyên ngôn không chỉ là ở sự chính xác và sức mạnh biểu đạt của ngôn từ, ví dụ sau khi tham chiếu hai tuyên ngôn nhưng không dừng lại ở đó mà mở rộng về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: 'Đó là những lẽ phải không thể phủ nhận được'. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: 'họ tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào', 'họ ngâm trong máu của các cuộc khởi nghĩa của ta...', 'họ ràng buộc (...), họ cướp (...), họ giữ độc quyền (...), họ thậm chí còn tàn bạo giết hại những tù nhân chính trị...'. Khi tuyên bố độc lập hoàn toàn khỏi Pháp, Tuyên ngôn có các từ ngữ chính xác và lựa chọn cẩn thận: 'xóa bỏ hết các hiệp ước mà Pháp đã ký về (thay vì với) nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả các đặc quyền của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam...'. Ngoài ra, việc sử dụng nhiều từ ngữ và câu từ vừa tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ trong việc khẳng định ý tưởng, vừa đảm bảo tính chính xác và sức mạnh cho lập luận, vừa kích thích cảm xúc để ảnh hưởng đến nhận thức và chấp nhận chân lý. Tất cả những điều này làm nổi bật trình độ nghệ thuật tuyệt vời của tác giả, biến Tuyên ngôn Độc lập thành một mẫu mực của văn chính luận.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn là một tài liệu lịch sử có giá trị to lớn và đồng thời là một tác phẩm chính luận xuất sắc. Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra kỷ nguyên của sự độc lập và tự do, tạo điều kiện cho những thay đổi cấu trúc của cuộc sống dân tộc, trong đó có cả văn học.
Minh chứng cho sức hấp dẫn và sự thuyết phục của Tuyên ngôn độc lập - Mẫu 4
Tuyên ngôn độc lập mang trong mình nhiều giá trị quý giá. Từ nhiều góc độ khác nhau, giá trị của tác phẩm này đều rất sâu sắc. Về mặt văn học, Tuyên Ngôn Độc Lập là một tác phẩm chính luận hùng vĩ, là một mẫu mực văn chính luận đáng truyền bá hàng thế kỷ. Một trong những điểm nổi bật của Tuyên Ngôn Độc Lập chính là sự logic sắc nét, lập luận chặt chẽ tạo ra một sức thuyết phục mạnh mẽ. Xuất phát từ tinh thần sáng tạo và đặc điểm văn chính luận, chúng ta có thể nhận thấy nguồn gốc của sức thuyết phục này.
Như đã biết, Tuyên Ngôn Độc Lập là một tác phẩm chính luận. Văn chính luận thuyết phục người đọc thông qua lập luận, và nếu cần, cũng thông qua việc chống lại đối thủ bằng lập luận. Sức mạnh của nó nằm ở lập luận sắc bén, logic, và những bằng chứng không thể bác bỏ. Dù có sử dụng hình ảnh hay kích động tình cảm, văn chính luận vẫn tập trung vào việc thuyết phục bằng lập luận. Chúng ta sẽ thảo luận về sự ưu việt của Tuyên Ngôn Độc Lập theo quan điểm đó. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập viết cho ai? Câu hỏi này có vẻ như không cần thiết, bởi câu trả lời đã được đưa ra trong văn bản:
'Hỡi đồng bào cả nước!… “Chúng tôi (…) trân trọng tuyên bố với thế giới rằng'. Do đó, Bác viết cho dân tộc cả nước và nhân loại, không chỉ cho ai khác. Về mục đích của việc viết, Tuyên Ngôn Độc Lập viết để tuyên bố độc lập, không có mục đích khác.
Thực tế không chỉ đơn giản như vậy. Nếu chỉ viết cho dân tộc và thế giới mà không cần lập luận như vậy, có lẽ Bác sẽ không cần phải dùng đến lập luận như vậy. Và không nhất thiết phải bắt đầu bằng việc trích dẫn từ hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Mỹ và Pháp từ thế kỷ XVIII. Vì vậy, đối tượng và mục đích của văn kiện lịch sử này cần được hiểu kỹ lưỡng hơn nữa. Cần nhận ra rằng khi Bác Hồ viết Tuyên Ngôn, ở miền Nam, thực dân Pháp đang tiến vào Đông Dương sau quân đội Anh (đại diện cho Đồng Minh thay vì quân Nhật) và ở phía Bắc, tay sai của Đế quốc Mỹ, Tàu Tưởng, đã trực sản tại biên giới. Người viết Tuyên Ngôn cũng hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh – Mỹ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày 15-8-1945 Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, 1970). Và tên thực dân này, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai, đã đưa ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ “hùng hồn” của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi Phát xít Nhật đã bị Đồng minh đánh bại. Vậy nên, Tuyên Ngôn không chỉ định rõ đối tượng là dân tộc và thế giới mà còn không chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Trong thảo luận, để phủ định luận điệu của một đối thủ, không có gì hấp dẫn và đáng chú ý hơn là sử dụng lập luận của đối thủ đó. Người ta gọi điều này là “dùng gậy của kẻ đánh mình để đập lại chính mình”.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do và độc lập của dân tộc Việt Nam bằng những lời của người tiền bối Mỹ và Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền, những bản tuyên ngôn đã từng làm rạng danh cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của hai dân tộc đó. Cách diễn đạt, cách viết như vậy vừa tinh tế vừa quả quyết. Tinh tế vì tỏ ra rất tôn trọng những câu nói bất hủ của người Pháp, người Mỹ. Quả quyết vì nhấn mạnh rằng đừng bao giờ phản bội tổ tiên, đừng bao giờ làm bẩn lá cờ nhân quyền của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ, nếu họ dám tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra, việc mở đầu bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam bằng việc nhắc đến hai bản tuyên ngôn lịch sử của hai quốc gia lớn như vậy cũng có nghĩa là việc xếp ba cuộc cách mạng, ba nền độc lập, ba bản Tuyên Ngôn lên cùng một tầm quan trọng. Một cách khéo léo hơn, bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn tái hiện niềm tự hào của tác giả Bình Ngô Đại Cáo, khi mở đầu tác phẩm bằng hai câu cân xứng như để đặt Triệu Đinh, Lê, Lý, Trần của Nam Quốc ngang hàng với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc Quốc. Việc đặt ngang hàng cũng là cần thiết, vì cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 thực sự đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mỹ (1776) và Pháp (1789). Bản Tuyên Ngôn đã tuyên bố rõ ràng: “Dân ta đã phá vỡ những kẹt xe thực dân suốt gần một trăm năm để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là yêu cầu được đặt ra cho cuộc cách mạng của Mỹ: giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ khỏi sự chiếm đóng của Anh. Bản Tuyên Ngôn cũng viết: “Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ hàng chục thế kỷ để thành lập chế độ dân chủ cộng hoà”. Đó cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền của Pháp thế kỷ XVIII.
Tuy nhiên, để tiếp xúc với các thế lực thực dân đang xâm lược, vấn đề quan trọng nhất là quyền tự do dân tộc. Điều đó giải thích tại sao bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã bắt đầu như thế: “Mọi người đều được sinh ra bình đẳng. Họ được Tạo hóa ban cho những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền tìm kiếm hạnh phúc. Những lời nói bất hủ đó trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ. Kết luận “suy rộng ra” đó là một đóng góp ý nghĩa của Hồ Chí Minh cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn nước ngoài đã viết: “Đóng góp nổi tiếng của Bác Hồ là ở chỗ Người đã chuyển đổi quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Điều đó có nghĩa là tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết định số phận của mình. (Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới – NXB Sự Thật. H. 1979).
Vậy thì có thể coi quan điểm “suy rộng ra” đó như một phát động cho cuộc cách mạng bão táp ở các thuộc địa sẽ gây ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên toàn cầu vào nửa sau của thế kỷ XX?
Kẻ thù nguy hiểm nhất, gây nguy hại nhất đối với độc lập dân tộc khi bản Tuyên Ngôn ra đời là bọn xâm lược Pháp. Để đẩy lùi nguy cơ đó, cần phải có một cuộc chiến vũ trang dài hơi của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đó cần sự đồng thuận và hỗ trợ của nhân loại tiến bộ. Để làm được điều đó, phải xây dựng cơ sở pháp lý cho cuộc kháng chiến, phải cao lên chính nghĩa của chúng ta và phải phá bỏ luận điệu xảo trá của bọn thực dân muốn “hợp pháp hóa” cuộc xâm lược của họ trước sự phê phán của cộng đồng quốc tế. Bản Tuyên Ngôn đã đáp ứng được yêu cầu đó bằng một hệ thống lập luận cực kỳ chặt chẽ và thuyết phục.
Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hoá của họ đối với Đông Dương à? Bản Tuyên Ngôn đã phơi bày những hành động đối lập hoàn toàn với nhân đạo và chính nghĩa của họ trong 80 năm chiếm đóng nước ta: đàn áp mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ dân tộc, đổ máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thực hiện chính sách cường bạo, lợi dụng ma túy và rượu cồn, bóc lột tận xương tuỷ, cuối cùng gây ra đói kém khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi triệu người dân ta chết đói”. Thực dân Pháp muốn tuyên truyền việc “bảo hộ” Đông Dương à? Thì bản Tuyên Ngôn đã rõ ràng chỉ ra đó không phải là công việc mà là tội lỗi vì “trong 5 năm họ đã bán đất nước của chúng ta hai lần cho Nhật”.
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của họ và họ có quyền trở lại Đông Dương à? Nhưng Đông Dương còn là thuộc địa của họ nữa đâu? Bản Tuyên Ngôn đã nói rõ: ”Thực tế từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật thống trị, nhân dân cả nước đã nổi dậy lấy lại quyền tự do, lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thực tế là dân ta đã giành lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, mang tính chất pháp lý cực kỳ quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên Ngôn: ”Vì vậy, chúng tôi tạm thời là chính phủ của nước Việt Nam mới, đại diện cho toàn bộ dân Việt Nam tuyên bố độc lập hoàn toàn với thực dân Pháp, hủy bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã ký với Việt Nam. Hủy bỏ tất cả các đặc quyền của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam”. Sức mạnh của chính nghĩa luôn là sức mạnh của sự thật. Và không có lý lẽ nào thuyết phục hơn là lý lẽ của sự thật. Vì vậy, Người viết Tuyên ngôn luôn nhấn mạnh hai chữ “sự thật”: “Sự thật là…” “sự thật là…” Và cuối cùng thì nước Việt Nam có quyền tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập”… Đó là những bước đi tiếp theo, làm tăng thêm sức mạnh của bản Tuyên Ngôn. Đó là hệ thống lý lẽ bác bỏ lời nói của các thực dân. Còn với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay không, có đủ tư cách để tự quyết định vận mệnh của mình hay không? Bản Tuyên Ngôn đã đưa ra những lý lẽ không để phủ nhận mà để khẳng định:
Nếu thực dân Pháp đã phản bội Đồng Minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng giành lại chủ quyền từ tay phát xít Nhật.
Nếu thực dân Pháp đã bộc lộ bản chất đê hèn, tàn ác và phản loạn của họ bằng cách “Khủng bố Việt Minh, thậm chí sau khi thất bại, chúng vẫn tàn nhẫn giết một số lượng lớn tù nhân chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng' thì dân tộc ta vẫn giữ thái độ khoan dung và nhân đạo ngay cả đối với kẻ thù đã thất bại: “Sau sự kiện 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp nhiều người Pháp vượt biên giới, lại cứu nhiều người Pháp thoát khỏi tù của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”. Một dân tộc phải chịu bao nhiêu đau khổ dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân, đã dũng cảm chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng về phe Đồng Minh chống phát xít, đã cao quý tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái như thế. “Dân tộc ấy phải được tự do! Dân tộc' phải được độc lập”…
Tinh thần khẳng định trong lời kết luận, được nâng cao một bậc nữa: hưởng độc lập tự do không chỉ là một quyền lợi phải có, không chỉ là một tư cách cần phải có, mà đó là một hiện thực: 'Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã biến nó thành một quốc gia tự do, độc lập', Và vì thế “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết định dùng tất cả tinh thần và lực lượng, sinh mạng và tài sản để bảo vệ quyền độc lập tự do ấy'
Bài Bình Ngô Đại Cáo được ví như là 'Thiên cổ hùng văn'. Tương tự, bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có thể được gọi là như vậy. Tuy nhiên, khi bản Tuyên Ngôn ra đời, không còn là thời kỳ văn học nguyên hợp, văn sử bất phân như thời xưa để tác giả đưa vào những hình ảnh hùng vĩ, tầng tầng lớp lớp như trong bài Cáo của người xưa. Ngày nay, văn chính luận là văn chính luận. Tài năng ở đây là khả năng xây dựng một lập luận chặt chẽ, đưa ra những luận điểm, những bằng chứng không thể chối cãi. Và đằng sau những lý lẽ đó là một tấm tư tưởng, tầm văn hoá lớn đã được tổng kết trong một bản Tuyên ngôn ngắn gọn, sáng sủa, sâu sắc, phản ánh kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và nhân loại. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đánh giá đây là thành công thứ ba khiến ông cảm thấy 'sung sướng' trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh nghiệm của mình.