Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ là những tác phẩm nổi tiếng trong văn học hiện đại Việt Nam. Cả ba bài thơ đều tập trung vào mô tả cảnh thiên nhiên, nhưng mỗi bài lại mang đến một sắc thái và nội dung khác nhau. Hãy cùng tìm hiểu về vẻ đẹp và sức cuốn hút của thiên nhiên trong Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ dưới đây để có cái nhìn chi tiết hơn.
Đề bài: Chứng minh vẻ đẹp và sức hút của thiên nhiên qua bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ
Mục Lục bài viết:
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
Chứng minh vẻ đẹp và sức cuốn hút của thiên nhiên qua bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ
1. Chứng minh vẻ đẹp và sức cuốn hút của thiên nhiên qua bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 1:
'Không gian nào không bị ám u sầu
Người buồn bã cảnh cảnh chẳng hồi sinh bao giờ'
Thật sự, từ xưa đến nay, thiên nhiên vẫn là nguồn cảm hứng vô tận cho những nhà thơ, qua những bức tranh thiên nhiên để ghi lại dấu ấn cá nhân độc đáo của mỗi tác giả. Dưới ánh nhìn tinh tế và sự nhận thức khác nhau của nghệ sĩ, thiên nhiên hiện lên với vô số hình dạng và ẩn chứa những nét tâm trạng đặc sắc của tác giả. Hãy cùng khám phá vẻ đẹp và sự gợi cảm của thiên nhiên qua những dòng thơ trong Tràng giang của Huy Cận, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Nếu nhắc đến Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử là nhắc đến ba hồn thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới trong những năm 30 của thế kỉ XX. Họ đều là những nhà thơ có cái nhìn rất độc đáo, sáng tạo về thiên nhiên, và một tâm hồn nhạy cảm, xao xuyến trước vẻ đẹp và sức gợi cảm của thiên nhiên. Tuy nhiên, sau vẻ đẹp và sự gợi cảm ấy là nỗi buồn lưng chừng của trí thức trước những thách thức của thời đại.
Trước hết, hãy cùng Huy Cận chiêm nghiệm qua bức tranh thiên nhiên Tràng giang với nét đẹp cổ điển, đong đầy cảm xúc:
Sóng gợn tràng giang buồn bơi bờ
Chiếc thuyền bước nhẹ trên sóng đôi song song
Thuyền trở về đất liền, hòa mình vào sự buồn bã hàng trăm hướng
Mảnh củi một đơn độc trên dòng nước lạc lõng
Đọc những dòng thơ đầu, hình dung trước mắt bức tranh sông nước bát ngát, yên bình với những 'sóng gợn', 'chiếc thuyền',... - những hình ảnh thân thuộc trong thơ cổ điển. Lớp sóng trải dài bạc lên, lan tỏa vô tận, tạo nên khung cảnh đẹp tuyệt vời, mênh mông. Thêm chi tiết 'mảnh củi một' bơ vơ trên mặt nước và hình ảnh chiếc thuyền trôi bên sóng nước làm nổi bật vẻ đẹp giản dị, quen thuộc của quê hương. Nhưng trước cảnh đẹp ấy, cảm nhận những sóng 'buồn điệp điệp', nhà thơ truyền đạt nỗi buồn sâu thẳm, như những lớp sóng không ngừng cuộn trôi, kéo dài, thể hiện tâm trạng cô đơn, lạc lõng 'mảnh củi một' giữa cuộc đời. Bức tranh tâm cảnh ẩn chứa đằng sau bức tranh ngoại cảnh, nỗi buồn của con người như lan tỏa khắp thiên nhiên.
Chìm đắm trong vẻ đẹp tự nhiên của Tràng Giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ
Nỗi buồn tột cùng ngấm sâu vào khung cảnh:
Cồn nhỏ lặng lẽ, gió thổi hiu quạnh
Tiếng làng xa xa vọng lên giữa bữa chiều tà
Nắng rơi, bầu trời mở rộng vô tận
Dòng sông dài, bản đồ trời rộng lớn, bến cố liêu
Dòng tràng giang mở rộng hơn, cồn cát nhỏ lơ thơ, tiếng chợ chiều vang lên
Qua khổ 3 bài thơ, vẫn là hình ảnh sông nước bát ngát,
Bèo trôi theo dòng nước, hàng liên kết vô tận
Mênh mông không một chuyến đò nào chạy ngang qua
Không tìm kiếm chút niềm thân thiết nào
Bờ xanh lặng lẽ chờ đợi, tiếp tục bãi cát vàng
Nhưng trong cảnh sắc đẹp đó, những chiếc bèo hàng nối hàng trôi trên dòng sông, bờ xanh, bãi cát vàng làm tăng thêm vẻ đẹp bình dị, quen thuộc. Trước cảnh nước lớn mênh mông, tâm hồn thi nhân bồi hồi khi nhìn bèo dạt trôi như mây, tự hỏi lòng mình 'về đâu', hướng về cây cầu, chuyến đò ngang mà lòng chợt lạnh gió, cảm giác cô đơn. Bút pháp tả cảnh hòa mình vào tâm trạng đã rõ nét hóa nỗi lẻ loi của người và của một thời đại.
Thiên nhiên trong bức tranh Tràng Giang tiếp tục được mô tả rõ nét qua những câu thơ cuối cùng:
Những đám mây cao dựng nên núi trắng bạch
Chim nhỏ khuất sau cánh: bóng chiều tà
Quê hương dịu dàng bên dòng nước,
Hoàng hôn không khói vẫn gọi nhớ nhà.
Bốn dòng thơ cuối tô điểm cho buổi hoàng hôn trên vùng quê xứ sở với những hình ảnh quen thuộc như 'cánh chim chiều, đám mây chiều'. Mây chiều trong thơ của Huy Cận không chỉ đẹp mà còn tràn đầy sinh khí, sống động, làm phong phú thêm bức tranh vật thể nước non. Lớp mây dày đặc, chồng chất tạo nên một không gian mở, vô cùng hùng vĩ, không giới hạn. Ánh hoàng hôn khuất sau lớp mây, chiếu rải những tia nắng như làm sáng lên những đám mây trắng bạch như núi bạc. Hoàng hôn trên quê hương trở nên như một trang cổ tích, đẹp đến mê hồn. Trong bức tranh đó, những chi tiết nhỏ như 'chim nghiêng cánh nhỏ' làm tăng cường độ chân thật, tạo nên không khí lãng mạn cho buổi hoàng hôn. Bầu trời hoàng hôn đẹp, hùng vĩ, rạng rỡ với những hình ảnh quen thuộc nhưng đằng sau đó là nỗi cô đơn, xao lạc của cái Tôi nhỏ bé trong cuộc sống. Qua những đường nét tinh tế, tác giả đã thể hiện tình yêu sâu sắc đối với quê hương, đất nước mình.
Theo bước chân của Huy Cận, Xuân Diệu cũng chia sẻ nỗi lòng qua bức tranh thiên nhiên mùa thu, mộng mơ nhưng chất chứa nỗi buồn thương:
Rặng liễu đìu hiu như tóc buông dài của người con gái,
Lệ ngàn hàng rơi buồn bã đón tang.
Nhà thơ mở màn bằng hình ảnh 'rặng liễu đìu hiu' không phải là biểu tượng truyền thống của mùa thu. Tác giả chọn những chi tiết tinh tế, tài tình để mô tả, biểu hiện sự đẹp đẽ gợi cảm nhưng đầy buồn bã, cảm giác cô đơn. Liễu đìu hiu như mái tóc buông dài, những hàng lệ tuôn trào như biểu tượng của sự chịu tang. Cảnh mùa thu mở ra không gian buồn bã, cô tịch, khiến độc giả cảm nhận được nét đẹp của sự lạc lõng, đau thương.
Mùa thu tới, mùa thu tới rồi.
Với áo mơ, lá vàng dệt nên bức tranh,
Không gian tỏa sáng, mùa thu gõ cửa với tiếng vui mừng của thi sĩ.
Hơn một loài hoa rơi xuống cành mảnh,
Vườn trổ hoa đỏ rực, xanh tươi ngất.
Những luồng lá run rẩy, rung rinh tại bức tranh mùa thu,
Đôi nhánh khô gầy, xương mỏng manh khéo léo phác họa,
Cái se lạnh của khí trời lan tỏa trong những dòng thơ:
Thiên nhiên đẹp mê hồn nhưng mang vẻ tàn tạ, héo úa.
Khiến nàng trăng thỉnh thoảng ngẩn ngơ mơ mộng,
Núi non xa ẩn hiện sương khói khởi phai mờ,
Nghe rét muốt lạnh lẽo trong làn gió huyền bí,
Người đã rời bỏ, chuyến đò chìm trong cô đơn.
Bóng mây nhẹ nhàng, hòa mình với cánh chim hòa mình bay đi
Không khí trời lạnh lẽo, chứa đựng sự u uất của những mảnh vỡ tình cảm
Hình ảnh thiên nhiên hiện lên gần gũi và xa xôi, như những đám mây tự do trôi dạt trong không trung. 'Nàng trăng tự ngẩn ngơ' tự do tỏa sáng trên bầu trời cao xanh, bao phủ bởi lớp sương mỏng tạo nên một khung cảnh tuyệt vời, huyền bí. Mùa thu không chỉ đem theo lá vàng tươi, mà còn mang theo cảm giác 'rét mướt', không phải lạnh buốt, mà là lạnh dịu như làn da của người phụ nữ đang nhớ thương ai đó. Hình ảnh này khiến người đọc cảm nhận được không khí lạnh của mùa thu tràn ngập trong từng hơi thở, theo dấu chân của nàng thu về với đất trời. Đây thực sự là một bức tranh hiếm hoi trong thơ ca! Một lần nữa, tài năng và sáng tạo của Xuân Diệu toát lên qua việc tạo dựng hình ảnh mây độc đáo.
Khác biệt hoàn toàn so với vẻ lãng mạn, buồn bã, đầy đau thương trong những trang thơ Tràng giang của Huy Cận, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đưa chúng ta đến với một thiên nhiên sống động, tươi mới và đẹp đẽ:
Anh đến thôn Vĩ chơi đi, sao bỏ lỡ
Nhìn ánh nắng rực rỡ, bắt đầu một ngày mới
Vườn cây xanh tươi như ngọc của ai đó
Lá trúc bóng mát che phủ mặt đường điền
Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi, âm điệu nhẹ nhàng và triền miên. 'Tại sao anh không ghé thăm thôn Vĩ' nghe như lời tự trách, tỏ ra hờn dỗi hoặc là lời mời gọi tình cảm của thôn Vĩ đối với nhà thơ, nhưng thực chất đó là tác giả tự mình mời gọi chính bản thân mình trong niềm mong đợi được quay về thôn Vĩ. Vậy có điều gì đặc sắc ở thôn Vĩ mà nhà thơ lại trông chờ đến vậy? Bức tranh về thiên nhiên mở ra với hình ảnh của 'nắng hàng cau, nắng mới rơi', ánh nắng tràn ngập rực rỡ, tạo nên bắt đầu mới của một ngày. Vườn Vĩ Dạ tỏa sáng với vẻ tươi mới, mát lành, tương phản với sự yên bình và trầm tư của Huế. Cảnh vườn được tả bằng những nét bút từ xa tới gần, từ cao tới thấp, mặc dù chỉ là 'vườn ai' không rõ ràng nhưng nó vẫn hòa mình vào khung cảnh sống động, tươi mới, rực rỡ với những vườn cây 'mướt', tràn ngập sức sống. Màu xanh của cây cỏ là màu 'xanh như ngọc', gợi lên vẻ đẹp trù phú và quý phái. Câu thơ không chỉ miêu tả cảnh đẹp mà còn là lời khen ngợi sâu sắc đẹp tự nhiên của Vĩ Dạ. Thơ mộng và ấm áp, thôn Vĩ hiện lên qua đôi mắt của tác giả với con người sống động, e thẹn, và lối sống kín đáo của Huế. Chỉ trong vài dòng thơ đầu, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh của một Vĩ Dạ ấm cúng, tươi mới và đầy sức sống, cảnh đẹp và con người hòa quyện một cách hài hòa.
Khung cảnh Huế được mở rộng với hình ảnh sông nước và bầu trời, mang nét độc đáo chỉ có ở đây:
Gió theo lối mây, theo đường gió
Dòng nước u buồn, hoa bắp lay đưa
Bến sông trăng, thuyền đậu chờ ai?
Có ai đưa trăng trở lại tối nay!
Trên cao, gió thổi nhẹ, mây trôi êm, dưới sông Hương uốn cong lững lờ chảy, những bông hoa bắp lay đào nhau trong gió. Nhịp thơ chậm, dàn trải hòa quyện với sự huyền bí của sóng nước, mây trời và bình yên của không khí, đặc trưng cho tính cách mộng mơ của người dân Huế. Bức tranh đêm trăng trên sông Hương thơ mộng, huyền ảo, cả dòng sông như hòa mình vào ánh trăng lấp lánh, lung linh, huyền diệu: Dòng sông trăng, bến sông trăng, thuyền chở đầy trăng. Với thêm ánh trăng, bức tranh thiên nhiên sống động và tươi mới ban sáng đã biến thành một cảnh tượng kỳ bí, huyền bí, rực rỡ, khiến người ta không khỏi cảm thấy sự kỳ diệu đặc biệt. Để tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt vời như vậy, thi sĩ Hàn cần có một tình yêu sâu sắc với thiên nhiên và đất đai Huế, cùng với ánh nhìn tinh tế và tâm hồn nhạy cảm, mới có thể mô tả được vẻ đẹp tinh tế và gợi cảm của cảnh vật. Nhưng 'Mọi cảnh đẹp đều mang nỗi buồn/ Người vui cảnh đẹp cũng buồn điều đó', bức tranh ngoại cảnh ẩn sau đó là bức tranh tâm lý của nhà thơ, vui mừng vì cảnh đẹp đó nhưng cũng đau lòng, cô đơn lấn át vào cảnh vật, trải qua không khí dịu dàng của gió mây, đất trời.
2. Chứng minh vẻ đẹp và quyến rũ của thiên nhiên qua những bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 2:
Trong trào lưu Thơ mới, thiên nhiên trở thành nguồn cảm hứng, là tri âm tri kỉ của những nhà văn, nhà thơ với tâm hồn mỏng manh, nhạy cảm. Mỗi cây bút đều có 'người tình' thiên nhiên riêng, có người giao cảm với dòng sông mùa thu, có người nhìn thấy bản thân qua giọt sương đọng trên lá,… Đối với Huy Cận, Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử, ba tác giả nổi bật nhất trong giai đoạn thơ 30 – 45, thiên nhiên là nơi chứa đựng nỗi buồn, khổ đau để thể hiện cho thế gian, thiên nhiên đẹp và đau khổ như lăng kính của cuộc sống cho tâm hồn những nhà thơ nổi loạn.
Hoạt động trong nhóm văn đoàn Tự lực, Xuân Diệu, Huy Cận và Hàn Mặc Tử không chỉ có bản sắc riêng biệt mà còn chung điệu về lối viết và nhận thức giác quan. Với Xuân Diệu, văn chương là 'nghiệp', là tôi và ông luôn sống trong sợ hãi, lo lắng trước sự kết thúc, dấu chấm cho cuộc sống. Huy Cận tìm thấy nỗi buồn trong những biến đổi nhẹ nhàng của thiên nhiên, xem văn chương như dòng chảy trong máu. Còn Hàn Mặc Tử, trải qua cuộc sống đau khổ, những gì còn lại trong tâm hồn chỉ là những hình bóng mơ hồ với khát khao hòa nhập, tan biến cùng gió. Với những tính cách khác nhau đó, họ đã đưa vào làng văn nghệ Việt Nam những màu sắc hài hòa. Mặc dù có một điểm chung trong thơ của họ, là thiên nhiên luôn đeo bóng, đeo cảm xúc, cảnh vật chứa đựng cảm xúc con người, luôn đẹp và đau khổ đồng thời. Với tư duy đó, Huy Cận sáng tác 'Tràng Giang', Xuân Diệu viết 'Đây mùa thu tới' và Hàn Mặc Tử cùng sáng tác 'Đây thôn Vĩ Dạ' là bằng chứng cho cảnh thiên nhiên vừa đẹp, vừa gợi cảm và vừa buồn thương sâu sắc.
'Đây Thôn Vĩ Dạ' của Hàn Mặc Tử là một bức tranh phong thủy đặc sắc chứa đựng những tâm sự, nỗi nhớ thầm lặng về một tình yêu gắn bó với mảnh đất Vĩ Dạ thân thương. Truyện kể rằng, Hàn Mặc Tử đã yêu một cô gái Huế, họ buộc phải chia xa vì bệnh tật và những biến cố trong cuộc sống, nhưng đến khi nhận được tấm thư kèm theo bức ảnh của con sông Hương trong một đêm trăng thanh vắng, tâm hồn của nhà thơ đã sáng tác một bài thơ xuất sắc. Đó không phải là thư tình quá mức lãng mạn, cũng không hoàn toàn là thơ tả cảnh đẹp thiên nhiên, mà trong đó, chúng ta thấy một trái tim xao xuyến, một thiên nhiên tươi đẹp mơ mộng nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu niềm thương và nỗi nhớ u buồn, đau đớn của tác giả.
Chứng minh vẻ đẹp và sức hút của thiên nhiên qua những bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, Đây thôn Vĩ Dạ
Thiên nhiên trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện với 'nắng hàng cau nắng mới lên', 'vườn ai mướt quá xanh như ngọc'. Không gian mở rộng và cao với ánh nắng mật ngọt, 'nắng mới', màu nắng còn nguyên sơ, dịu dàng. Ánh nắng bao trùm lên vạn vật, hàng cau bên hiên mái nhà tranh, những luống rau xanh mướt trong vườn. Từ 'mướt' và 'xanh như ngọc' tô điểm cho khu vườn, xanh ướt át, màu xanh phủ một lớp nước trong suốt. Hòa cùng ánh nắng, giọt nước trên tán lá như viên ngọc lấp lánh, cả bầu trời, cầu vồng nằm gọn trên đọt lá xanh tươi. Khung cảnh làng quê thanh tĩnh mở ra cảm giác bình yên, nguyên sơ và gần gũi.
Nhưng ngay sau đó, thiên nhiên mất đi vẻ đẹp trong sáng, thanh thuần, thay vào đó là sự chia li, buồn khổ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
'Gió theo lối gió, mây đường mây' thể hiện sự chia lìa, cách trở. Gió thổi từng đám mây lặng lờ trôi trên bầu trời thanh thẳm, ở dưới là dòng nước sông Hương quanh năm gờn gợn, bên bờ là hoa bắp lay theo từng biến chuyển của làn gió. Dòng nước sông Hương là biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, con sông Hương chảy ngược nước từ biển về, trải quanh thành phố như dải lụa thơ mộng. Nhưng dường như, nước sông Hương đọng lại cũng như nỗi buồn chất chứa bể sở trong lòng nhà thơ, nỗi buồn từ biển khơi bao la chất chứa trong tấm lòng người thi sĩ. Bức tranh tả cảnh ngụ tình 'buồn thiu', con sóng lăn tăn buồn bã hay long người có hàng ngàn con sóng nhỏ không yên. Bút pháp tả cảnh ngụ tình, từ cảnh vật gợi lên cảm xúc mang đến cho thiên nhiên trong 'Đây thôn Vĩ Dạ' một màn sương mờ man mác, màn sương của sự day dứt, nhớ nhung khắc khoải.
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó', cảnh thiên nhiên mở ra mang hơi thở huyễn hoặc, huyền ảo. cặp hình ảnh 'thuyền', 'trăng' quen thuộc trong cảm nhận của Hàn Mặc Tử trở thành 'sông trăng', ánh trăng dát bạc lên dòng sông, khiến dòng sông như thuộc về ngân hà. Chiếc thuyền kia là thuyền đón trăng, ánh trăng phủ bạc lên những con sóng bạc đầu, cảnh tình như vẽ, Trong thơ của Hàn Mặc Tử luôn có tính nhạc trầm bổng và tính họa gợi tả, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, bao hàm được tất cả dụng ý của nhà thơ. Với những nét chấm phá độc đáo, khung cảnh thiên nhiên giống như chiếc máy du hành ngược thời gian, từ ban ngày khi có nắng mới vàng tươi đến ánh trăng vằng vặc trên trời cao rộng. Từng cảnh vật đều mang một vẻ buồn man mác, một nỗi buồn khó định hình hay gọi tên. Cũng phải thôi, vì 'người buồn cảnh có vui đâu bao giờ', thẳm sâu trong lòng thi sĩ là một nỗi nhớ nhung, nhớ quê nhà, nhớ người tình, nhớ cả khung cảnh với nắng mới, với không khí trong lành, nhớ xứ Huế mộng mơ. Cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, nỗi buồn khắc khoải không nguôi dễ khiến người đọc cảm giác tâm trạng cũng chùng xuống theo từng nhịp thơ, để rồi đồng cảm với tác giả một nỗi buồn thiên thu.
Nỗi buồn của Xuân Diệu đượm lên từng hơi thở của cảnh vật trong 'Đây mùa thu tới' khiến thiên nhiên có phần ảm đạm, thê lương. Mùa thu trước nay vẫn gắn với sự điêu tàn, buồn rầu, dưới cái nhìn của Xuân Diệu lại càng trở nên bi thảm hơn. Ngay từ đầu bài thơ, bức tranh thiên nhiên đã hiện lên với vẻ cô tịch:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn bay trong gió, mưa lặng ngàn hạt
'Liễu', biểu tượng của mùa thu với vẻ đẹp mỏng manh, yếu ớt, 'liễu yếu đào tơ'. Hàng loạt những từ gợi sự mất mát, buồn sầu 'đìu hiu', 'đứng chịu tang', 'buồn', 'tự do bay bổng'. Nỗi buồn ập đến dồn dập, hối hả qua lối tả của Xuân Diệu. Những cành liễu rủ xuống như mái tóc cô gái rũ xuống, thân liễu gầy gò nương tựa vào nhau nhưng vẫn trung xuống sát mặt đất, 'lệ ngàn hàng' như tiếc thương cho ai đó vừa lìa xa cõi trần. Dáng vẻ của Liễu gợi cho người đọc hình ảnh về người phụ nữ Việt Nam duyên dáng, thanh mảnh nhưng bất hạnh, yếu đuối. Nỗi buồn gửi gắm vào hình ảnh cây liễu khiến thiên nhiên mang vẻ ảm đạm, buồn thương.
'Ánh nắng vàng nhẹ nhàng phai mờ áo mơ', màu vàng của nắng thứ không phải vàng ươm như màu mật nắng hạ, cũng không le lói như chút nắng đông hiếm hoi mà là màu sắc mờ ảo, thanh thoát, nhẹ nhàng. Cách miêu tả 'áo mơ' với 'lá vàng' cùng động từ 'phai mờ' khiến nắng như chuyển động trên từng lùm cây, tán lá. Từng bước chân nàng thu mang đến chút ánh sáng tươi sắc cho khung cảnh vốn xám xịt buồn tẻ.
Thiên nhiên trong 'Đây mùa thu tới' lắng đọng và tình tự hơn khi tác giả tập trung miêu tả cây cỏ đang chuyển mình trước khí thu.
Bông hoa lạ rơi xuống đất giữa mùa
Vườn hoa rực rỡ, sắc đỏ dịu dàng quyến rũ
Những cánh hoa run rẩy, nhẹ nhàng reo mừng lá
Đôi cành cây khô gầy hiên ngang giữa trời xanh
'Hơn một loài hoa', số lượng không xác định, nhưng mỗi bông hoa rơi là một đám tang riêng biệt. Mùa thu, lá cây thay áo, những cành hoa rơi nhẹ nhàng như tình cảm lìa xa. Trong vườn, sắc đỏ nồng hương là biểu tượng của sự biến đổi, nơi mà xanh cây chuyển sang vàng rồi đỏ, nhưng cũng là nơi của sự buồn bã, những rung động cuối cùng trước khi lá rơi xuống. Thế giới tự nhiên không chỉ là mùa thu, mà còn là sân khấu của những cảm xúc sâu thẳm, sự chấm hết ngày một đến gần.
Những dải lá reo mừng, rung động như tiếng nhạc của mùa thu
Cây cành gầy guộc là bức tranh đẹp của sự trơ trọi, những nhánh xương mỏng manh là dấu vết của thời gian. Những âm thanh run rẩy của mùa thu là những cung điệu cuối cùng của cây cỏ, nhưng cũng là điệu nhạc đẹp của sự sống trong tận cùng. Nhưng có lẽ, cùng với sự yếu đuối là sự kiêu hãnh, cây cỏ không còn rợp bóng xanh, nhưng vẫn hiên ngang đối diện với bước chân của thời gian.
Những nỗi sợ hãi của lá cây khiến mùa thu trở thành bức tranh cảm xúc, sự lạnh lẽo của lá run rẩy là tiếng nhạc cuối cùng của mùa thu. Là sự trơ trọi hay là sự chấm hết, tâm hồn của nhà thơ cũng như cây lá, lẻ loi giữa không gian trống rỗng, nơi có nỗi lo sợ nhất.
Thiên nhiên trong 'Đây mùa thu tới' tô điểm hình ảnh đẹp đắm, nhưng cũng chứa đựng sự buồn bã, bi kịch. Sự nhạy cảm và sống hết mình cho tuổi trẻ của Xuân Diệu là nguồn cảm hứng cho một thế giới thơ đầy lo lắng và sợ hãi trước cái chết. Cảnh ngụ tình thể hiện tâm trạng mất mát, lạc lõng giữa cuộc sống u ám và không gian thời gian vô tận.
Tiếng thơ hòa mình vào nỗi buồn, Huy Cận dành tình cảm cho con sông, cho chiếc thuyền. 'Tràng Giang' vừa ca ngợi vẻ đẹp bờ bãi sông Hồng, vừa là biểu tượng của sự nhớ nhà, tình quê hương đậm đà trong lòng người.
Sóng nổi giữa dòng sông Tràng Giang thổn thức
Chiếc thuyền trôi nhẹ, hòa mình vào dòng nước mặc dù song song với nước nhưng cảm giác như là cuộc hành trình riêng, làm nổi bật sự lẻ loi và trôi chảy của thời gian.
Dòng sông trải dài vô tận, những đợt sóng nhẹ nhàng lăn tăn trên mặt nước, điều đều, chậm rãi, từ tốn như bước nhảy nhẹ của lá cây tạo nên hình ảnh uốn lượn độc đáo. Mặt nước phản chiếu nỗi buồn vô hạn, cùng chiếc thuyền nhỏ duyên dáng 'xuôi mái nước song song', một tình cảm chùng chình, trôi dạt trong sự êm đềm, câu thơ dường như kéo dài hơn, nỗi buồn vô tận.
'Củi một cành khô lạc mấy dòng' là hình ảnh độc đáo, nghệ thuật đảo ngữ tạo ra sự lạc lõng, trơ trọi của cành củi giữa dòng nước vô định. Từ 'củi' làm nổi bật sự heo hút, cô đơn, tạo nên bức tranh ám ảnh.
Cảnh thiên nhiên hai bên bờ sông là một bức tranh đẹp, đầy gợi cảm:
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu,
Tiếng làng xa xa vọng lại trong bóng chiều.
Bức tranh nắng rơi trên trời sâu thăm thẳm,
Dòng sông mênh mông, bến cô liêu rợp bóng.
Sử dụng từ ngữ 'lơ thơ', 'đìu hiu', 'chót vót' để tạo nên không khí trống trải, huyền bí cho cảnh đẹp nơi đây. Cát trắng 'lơ thơ' giữa đại dương bát ngát, làn gió hiu quạnh 'đìu hiu' thổi nhẹ, cảnh sông cô liêu trở nên lẻ loi, bi thương. Nỗi buồn của con người hòa quyện cùng thiên nhiên, nơi đây trở nên bao la, vô tận. Tâm hồn nhỏ bé của con người chìm đắm giữa bầu trời rộng lớn, sự vô hạn của dòng sông, không thể tránh khỏi cảm giác cô đơn. Khi tìm kiếm sự ấm áp của con người, ta chỉ gặp 'bèo dạt về đâu, hàng nối hàng', 'bờ xanh tiếp bãi vàng', 'không một chuyến đò ngang'. 'Bèo dạt về đâu' thể hiện sự lạc lõng, lạc trôi không hướng, hay chính là sự lạc quẻ của nhà thơ trong cuộc sống. Nơi này chỉ còn Huy Cận với 'bờ xanh tiếp bãi vàng', không có sự giao lưu nào với con người. Người đọc cảm nhận được hình ảnh ẩn sau những dòng văn mạch liên tục, mô tả sự mong đợi được nói chuyện, hòa mình vào cảnh đẹp cô đơn và kinh hoàng của bờ sông Hồng. Huy Cận cô đơn giữa vẻ đẹp bát ngát, chuyến đò ngang đã mang ông đến đây nhưng lại xa cách phía chân trời, chỉ còn mình ông trong vùng trời u ám, với sự đìu hiu, đau thương đến tận cùng tâm hồn.
Mây trắng cao vút, đỉnh núi bạc phủ lớp lớp,
Chim nhỏ khuất chìm, bóng chiều mềm mại.
Chiều đã nhường bước cho đêm về, chim muông vội vã bay tìm ẩn náu. Bức tranh hùng vĩ hiện lên với mây trải cao che phủ đỉnh núi, sương mờ bạc bám đỉnh núi, vài con chim chao liệng bay qua, reo vui tại nơi họ thường trú. Động từ 'đùn' độc đáo, mới lạ, mô tả chuyển động của các tầng mây chồng chéo, tạo nên lớp mây dày đặc. Mây trời trải dài, hòa quyện với nét đẹp hùng vĩ của núi non, và dưới bàn tay tài năng của Huy Cận, thiên nhiên trở thành một bức tranh trữ tình, lãng mạn, chứa đựng tình cảm sâu sắc của người con xa xứ nhớ về quê hương.
Ba phong cách riêng biệt, nhưng thiên nhiên trong thơ của Huy Cận, Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử đều đẹp và đầy cảm xúc. Cây cỏ, hoa lá, sông nước được khám phá sâu rộng, đặt trong bối cảnh cảm xúc để chia sẻ tâm hồn nhạy cảm. Sử dụng ẩn dụ, so sánh và ngôn từ sáng tạo, ba nhà thơ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn hóa văn học Việt Nam. Trong số đó, thiên nhiên được kính trọng, làm phương tiện giao tiếp cảm xúc giữa nhà thơ và độc giả qua thời gian.