Chuối xiêm | |
---|---|
Buồng chuối xiêm chưa chín tại Thoại Sơn, An Giang, Việt Nam | |
Nguồn gốc lai ghép | Musa acuminata × Musa balbisiana |
Nhóm giống cây trồng | nhóm ABB |
Giống cây trồng | Chuối xiêm
|
Nguồn gốc xuất xứ | Thái Lan |
Chuối xiêm (còn gọi là chuối sứ) có nguồn gốc từ Thái Lan, thuộc nhóm chuối tam bội ABB. Đây là một loại cây trồng quan trọng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Quả chuối xiêm giàu dinh dưỡng, có thể ăn chín hoặc chế biến thành nhiều món. Hầu hết các bộ phận của cây đều có ích cho con người.
Tên gọi khác
Chuối xiêm ở Úc được gọi là 'Ducasse', ở Uganda là 'Kayinja'. Tên gọi pisang awak phổ biến ở Malaysia. Ở Thái Lan, gọi là kluai nam wa (กล้วยน้ำว้า). Ở Campuchia, gọi là chek nam va (ចេកណាំវ៉ា), tại tỉnh Surin của Thái Lan là chek sâ (ចេកស). Chuối này có nhiều tên La tinh như 'Namwah Tall'. Trong tiếng Việt, chúng là chuối sứ hoặc chuối xiêm. Ở Philippines, được gọi là lagkitan ở Nam Tagalog hoặc botolan ở Palawan.
Là một biến thể chắc khỏe, 'chuối xiêm lùn' được biết đến tại Mỹ với tên Musa 'Dwarf Namwa', phát triển bởi công ty Agri-Starts; và trong tiếng Thái là kluai nam wa khom (กล้วยน้ำว้าค่อม).
Phân loại
Chuối xiêm có nguồn gốc từ Thái Lan, là giống lai giữa Musa acuminata và Musa balbisiana. Hầu hết tài liệu đều cho rằng chuối xiêm thuộc nhóm gen ABB tam bội, nhưng có tài liệu cho rằng nó thuộc nhóm gen AABB tứ bội. Tên khoa học là Musa (ABB) 'Pisang Awak'. Tên đồng nghĩa là: Musa paradisiaca var. awak.
Tổng quan
Quả chuối xiêm có hình dáng hai đầu thon nhỏ, giữa to, trên vỏ có ba gờ và cuống dài. Khi chín vỏ vàng, thơm, phần thịt trắng nõn, vị ngọt nhẹ và hơi chát. Chuối xiêm có nhiều hạt khi phấn hoa dồi dào.
Cây cao từ 3 đến 5,2 m (9,8 đến 17,1 ft). Thường trồng ven bờ kinh, mương, sông rạch... Chuối xiêm trồng từ 8 tháng đến 1 năm sẽ có quả. Khoảng cách giữa các bụi chuối là khoảng 1 m. Hàng năm bón phân từ 1 - 2 lần. Tùy thuộc vào cây con lớn hay nhỏ khi trồng, từ lúc trổ quả đến lúc chín mất khoảng 100 ngày. Sau khi thu hoạch, tỉa bớt cây và lá để tạo sự thông thoáng cho cây con phát triển.
Sinh thái
Cây chịu được khí hậu nắng nóng, kháng hạn tốt, thích hợp trồng ở vùng khô. Chuối xiêm ưa ẩm và ánh sáng, thích nghi với điều kiện nhiệt đới nóng và ẩm. Lượng mưa hàng năm cần phân bổ đều, khoảng 200–220 mm/tháng. Nhiệt độ lý tưởng từ 15-35 °C. Chuối có thể trồng trên nhiều loại đất, nhưng tốt nhất vẫn là đất phù sa có tầng mặt dày, tơi xốp, nhiều mùn, giàu dinh dưỡng, giữ ẩm và thoát nước tốt. Nếu đất mỏng, nhiều cát, nghèo chất hữu cơ hoặc nhiễm mặn, cây chuối sẽ sinh trưởng kém. Độ pH đất trồng chuối xiêm từ 5.0 - 7.0. Đất quá chua hoặc kiềm sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quả, làm giảm độ ngọt và mùi thơm.
Công dụng
Ở Uganda, chuối xiêm (được người dân địa phương gọi là kayinja) được trồng để nấu bia chuối.
Ở Campuchia, chuối xiêm (địa phương gọi là chek nam va) được ưa chuộng hơn các loại khác do có nhiều công dụng, không chỉ giá trị về quả. Hoa chuối (khi ra hoa đực) và thân giả tuy có tính se nhưng được dùng làm rau. Lá được gấp lại dùng làm hộp chứa các món cà ri hấp, như cá hấp amok và ansom chek, làm tỏa hương lá chuối vào thức ăn.
Ở Việt Nam, chuối xiêm được ăn khi chín vàng và khi còn xanh. Quả dùng để chế biến nhiều món như kem chuối, chè chuối, chuối chiên, chuối nướng, chuối luộc... Món 'chuối nếp nướng' từ chuối xiêm, là một trong 9 món tráng miệng ngon nhất thế giới theo CNN. Quả xanh dùng trong các món rau ghém, ăn kèm món cuốn. Tại miền Tây Nam Bộ, mọi phần của cây chuối xiêm đều được tận dụng. Quả để ăn, lá gói bánh (bánh tét, bánh ít,...), cuống lá khô làm dây buộc. Bắp chuối (hoa chuối) chế biến món ăn như gỏi bắp chuối, ăn kèm bún bò Huế, bún riêu cua, bún nước lèo, bún mắm,... Chỉ bắp chuối xiêm và chuối hột ăn được, các loại khác có vị đắng, nhiều mủ.
- Chuối
- Danh sách giống chuối
- Chi Chuối
- Chuối rừng