Đề bài: Có một quan điểm đánh giá: 'Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục”. Hãy thảo luận về quan điểm trên.
Bài làm
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập với nhiều gian nan, phải đối mặt với những kẻ thù vô cùng nguy hiểm, dân tộc Việt Nam đã kiên cường chiến đấu và giành được những thắng lợi lịch sử. Cách mạng tháng Tám với hoàn cảnh thuận lợi và khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo và đọc Tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam. Có một quan điểm cho rằng: Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn, đầy sức thuyết phục. Có thể nói rằng Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của trí tuệ và nỗ lực của hàng triệu người dân Việt Nam.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tuyên ngôn
Ngoài những giá trị vĩ đại đã nói ở trên, bản Tuyên ngôn còn là một tác phẩm chính luận xuất sắc. Nó được viết trong bối cảnh lịch sử để tạo ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời là kết quả của khát khao tự do, độc lập cháy bỏng của dân tộc Việt Nam tích luỹ qua hàng nghìn năm. Do đó, người đọc luôn bị sức mạnh của một văn kiện vĩ đại mạnh mẽ, sáng sủa được tạo ra bởi trí tuệ và tâm huyết của Hồ Chí Minh - Người con uyên bác của dân tộc - và bởi bản thân tác phẩm - tiếng nói chân lí của thời đại. Mọi chân lí đều vô cùng giản dị. Điều này cũng là đặc điểm tạo nên vẻ đẹp của bản Tuyên ngôn Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại có cấu trúc ngắn gọn, súc tích như thế.
Trước hết, bản Tuyên ngôn là một văn kiện chính trị, nhằm mục đích thực thi, quan trọng và cấp thiết, đòi hỏi sự sôi nổi, đam mê và nhiệt huyết. Trong một tình hình như vậy, sự ngắn gọn, mạch lạc sẽ tạo nên sự hiệu quả thông tin nhanh chóng và chặt chẽ. Tuy nhiên, không phải mọi sự ngắn gọn đều mang lại tính súc tích, cô đọng và không phải mọi sự cô đọng đều chứa đựng sức mạnh. Bản Tuyên ngôn dường như tập trung vào hai vấn đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hoàn toàn quyền dính líu của thực dân Pháp tới Việt Nam; thứ hai: khẳng định quyền độc lập và quyết tâm bảo vệ quyền độc lập đó. Với những mục tiêu này, các ý tưởng, các cấu trúc câu tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn gọn, sáng sủa.
Như đã đề cập ở trên, văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân mà còn trước cộng đồng quốc tế. Điều này cũng là thái độ của chúng ta trước kẻ thù, vì vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập đã bắt đầu bằng việc tham chiếu đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ, từ đó mở rộng vấn đề về quyền tự do, độc lập dân tộc (bên cạnh quyền con người và quyền công dân) như một chân lý không thể phủ nhận. Tuy nhiên, hơn 80 năm trôi qua, thực dân Pháp vẫn bất chấp sự chân thành ấy; họ đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, lòng nhân ái để bóc lột dân tộc ta. Hành động của họ là vi phạm lẽ phải, là xâm lấn lên chân lí, trái ngược với nguyên tắc và đạo đức, đi ngược lại với những tuyên ngôn của Cách mạng Pháp. Bản Tuyên ngôn không chỉ tố cáo các tội ác của thực dân Pháp, mà còn tiết lộ bộ mặt phản bội của họ, khẳng định quyền tự do, độc lập chính đáng của dân tộc Việt Nam một cách dứt khoát.
Tất cả những lập luận và bằng chứng được tổ chức một cách chặt chẽ, đanh thép nhằm chống lại những lời biện hộ của thực dân, những kế hoạch âm mưu của các lực lượng đế quốc nhằm duy trì chính quyền - vấn đề quan trọng nhất đối với tương lai của dân tộc ta vào thời điểm đó. Đáng lưu ý, bản Tuyên ngôn không bắt đầu bằng việc nhắc đến truyền thống chống xâm lược bảo vệ chủ quyền dân tộc từ thời kỳ các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê... mà xuất phát từ các nguyên tắc do chính các nước tư bản đã đề xuất và công nhận, đặc biệt là các nước thuộc phe Đồng minh. Rõ ràng trong lập luận, tác giả bản Tuyên ngôn không chỉ thể hiện sự tôn trọng đối với thành tựu văn hóa của nhân loại, mà còn buộc các cường quốc phải tự kiểm điểm và thừa nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Để buộc tội thực dân Pháp, tác giả đã liệt kê năm tội ác chính trị, bốn tội ác kinh tế cùng một loạt hành vi phản bội rõ ràng vào những thời điểm cụ thể, khiến chúng không thể phủ nhận. Để đánh bại những mơ hồ, những “âm mưu gian xảo” mà thực dân Pháp đã cố gắng sử dụng như một lời biện hộ để tái thiết thế lực thống trị đất nước, tác giả một lần nữa làm rõ: “Từ mùa thu năm 1940, bọn phát xít Nhật đã xâm nhập Đông Dương để mở rộng căn cứ chiến đấu của Đồng minh, thì thực dân Pháp đã đầu hàng, mở cửa nước ta đón Nhật. '(...) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, không phải là của Pháp nữa. (...) Sự thật là dân ta đã giành lại nước Việt Nam từ tay Nhật, không phải từ tay Pháp.'
Bằng sức mạnh của một trí tuệ vượt trội, với sự hiểu biết sâu sắc về tình hình chính trị, thông qua những chứng cứ đầy đủ và chính xác, bản Tuyên ngôn thực sự là một bản tuyên ngôn đầy sức mạnh lên án tội ác của thực dân Pháp. Tuy nhiên, sức mạnh thuyết phục của bản Tuyên ngôn còn phản ánh ở sự chính xác và sâu sắc của ngôn từ, ví dụ sau khi tham chiếu đến hai bản Tuyên ngôn, nhưng không chỉ dừng lại ở hai bản Tuyên ngôn đó mà mở rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: “Đó là những sự thật không ai có thể phủ nhận”. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: “chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “chúng tắm máu của những cuộc khởi nghĩa của ta...”, “chúng buộc (...), chúng lợi dụng (...), chúng cướp (...), chúng kiểm soát độc quyền (...), chúng thậm chí còn không lường được việc giết hại hàng ngàn tù nhân chính trị...”. Khi tuyên bố giải phóng hoàn toàn khỏi thực dân Pháp, bản Tuyên ngôn sử dụng từ ngữ chính xác và cẩn thận: “hủy bỏ mọi thỏa thuận mà Pháp đã kí với (không phải là với) Việt Nam, hủy bỏ tất cả các đặc quyền của Pháp tại đất nước Việt Nam...”. Hơn nữa, việc sử dụng hàng loạt từ ngữ, diễn ngôn không chỉ tạo ra hiệu ứng mạnh mẽ trong việc khẳng định các ý tưởng, mà còn đảm bảo sự chính xác và sức mạnh cho lập luận và thậm chí kích thích tâm trí, thúc đẩy người nghe nhận ra và chấp nhận sự thật. Tất cả những điều này đã làm nổi bật trình độ nghệ thuật tài tình của tác giả, biến Tuyên ngôn Độc lập thành một điển mẫu của văn chính luận.
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn là một tài liệu lịch sử có giá trị lớn và cũng là một tác phẩm chính luận hoàn hảo mẫu mực. Tuyên ngôn Độc lập đã khai mạc cho thời kỳ độc lập, tự do, mở ra cơ hội cho mọi thay đổi căn bản trong cuộc sống dân tộc, trong đó có văn học.