Cơ ngực lớn | |
---|---|
Lớp cơ nông của ngực và phía trước của cánh tay | |
Nhìn từ trước | |
Chi tiết | |
Phát âm | /ˌpɛktəˈreɪlɪs |
Nguyên ủy | đầu đòn: Mặt trước nửa trong của xương đòn. đầu ức-sườn: mặt trước của xương ức, phía trên của 6 sụn sườn, và cân cơ chéo bụng ngoài |
Bám tận | Phía ngoài rãnh cơ nhị đầu của xương cánh tay (trước trong đầu gần của xương cánh tay) |
Động mạch | nhánh ngực của thân cùng vai-ngực |
Dây thần kinh | thần kinh ngực ngoài và thần kinh ngực trong đầu đòn: C5 and C6 đầu ức-sườn: C7, C8 và T1 |
Hoạt động | đầu đòn: gấp xương cánh tay đầu ức-sườn: giạng, duỗi và xoay trong xương cánh tay khép xương vai. |
Cơ đối vận | cơ delta, cơ thang |
Định danh | |
Latinh | Musculus pectoralis major |
TA | A04.4.01.002 |
FMA | 9627 |
Thuật ngữ giải phẫu của cơ [Chỉnh sửa cơ sở dữ liệu Wikidata] |
Cơ ngực phát triển (tiếng Anh: pectoralis major, từ pectus trong tiếng La tinh có nghĩa là vú) là một cơ lớn, có hình dạng quạt hoặc tam giác, nằm ở phần ngực và dưới vú của cơ thể người. Đằng sau cơ ngực phát triển là cơ ngực bé, mỏng và hình tam giác. Cơ ngực phát triển thực hiện các động tác gấp, giạng và xoay trong của cánh tay. Trong thể hình, cơ này thường được gọi đơn giản là 'cơ ngực' do đây là cơ lớn nhất và nằm ở vị trí nông nhất trong vùng ngực.
Giải phẫu
Cơ ngực phát triển là một cơ lớn, có hình quạt, nằm phía trước lồng ngực và dưới vú. Cơ này có nhiệm vụ khép và xoay trong cánh tay, đồng thời giúp nâng lồng ngực và toàn thân trong các động tác leo trèo, cũng như giữ cánh tay gắn liền với thân. Nguyên ủy của cơ ngực phát triển bao gồm: xương đòn, xương ức cùng các sụn sườn từ 1 đến 6 và xương sườn từ 5 đến 6; và cơ thẳng bụng. Cơ này bám tận tại rãnh gian củ của xương cánh tay theo hình chữ U.
Từ điểm bám vào xương, các sợi cơ ngực lớn hội tụ và bám vào rãnh gian củ của xương cánh tay.
Thần kinh điều khiển
Cơ ngực phát triển được điều khiển bởi thần kinh ngực trong và thần kinh ngực ngoài, hay còn gọi là dây thần kinh ngực trước ngoài.
- Đầu xương ức được điều khiển bởi các rễ thần kinh C7, C8 và T1, thông qua thân dưới của đám rối thần kinh cánh tay và thần kinh ngực trong.
- Đầu xương đòn được điều khiển bởi các rễ thần kinh C5 và C6, thông qua thân trên và bó ngoài của đám rối cánh tay, tạo thành thần kinh ngực ngoài. Thần kinh ngực ngoài điều khiển các vùng sâu của cơ ngực phát triển.
Điện cơ đồ cho thấy cơ ngực phát triển có ít nhất sáu nhóm sợi cơ có thể được điều khiển độc lập bởi hệ thần kinh trung ương.
Chức năng
Cơ ngực lớn thực hiện bốn động tác chính dựa trên chuyển động của khớp vai. Đầu tiên, gấp xương cánh tay, chẳng hạn như khi cầm bóng ném hay nhấc trẻ. Thứ hai, giạng xương cánh tay, ví dụ khi đưa tay ra hai bên. Thứ ba, xoay trong xương cánh tay, như khi vật tay. Cuối cùng, giữ cho cánh tay gắn liền với thân mình.
Sự phát triển của cơ ngực lớn làm tăng khả năng thực hiện các động tác. Các bài tập ép (press) như nằm ghế đẩy tạ đòn, nằm ghế đẩy tạ đơn, và máy đẩy tạ đều kích hoạt mạnh mẽ cơ ngực lớn, đặc biệt ở vùng ức-sườn. Khối lượng tạ có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động của cơ.
Ý nghĩa lâm sàng
Chấn thương
Tình trạng rách cơ ngực lớn rất hiếm gặp và thường xảy ra ở những người khỏe mạnh. Chấn thương này thường thấy ở các vận động viên, đặc biệt trong các môn thể thao tiếp xúc mạnh như cử tạ. Rách cơ gây đau đớn, làm yếu cơ và có thể dẫn đến tàn tật. Thường gặp ở vùng gân-cơ do sự co thắt mạnh, lệch tâm của cơ, ví dụ như khi tập nằm đẩy tạ. Các tổn thương ở bụng cơ ít xảy ra hơn và thường do cú đánh trực tiếp. Ở các nước phát triển, chủ yếu nam giới vận động viên gặp phải, đặc biệt là những người tập thể thao tiếp xúc và nâng tạ. Phụ nữ ít bị hơn do đường kính vùng gân-cơ lớn hơn và độ đàn hồi của cơ tốt hơn. Tổn thương thường được nhận diện qua cơn đau đột ngột ở vùng ngực và vai, kèm theo bầm tím và yếu cơ. Phẫu thuật khâu là phương pháp điều trị chính để bảo tồn chức năng cơ, đặc biệt với các vận động viên.
Chẩn đoán nhanh chóng, chính xác và thực hiện phẫu thuật sửa chữa sớm là yếu tố quan trọng cho sự phục hồi thành công sau chấn thương. Sự chậm trễ có thể khiến chấn thương trở thành mãn tính, giảm khả năng phục hồi. Sau phẫu thuật, cần cố định cánh tay bị tổn thương bằng đai đeo trong 6-8 tuần để tránh cử động làm đứt sợi cơ. Sau 2 tháng, bệnh nhân cần vật lý trị liệu trong khoảng 6 tháng và luyện tập để đạt kết quả tốt. Hầu hết có thể trở lại hoạt động sau 6 tháng đến 1 năm. Các chỉ định cận lâm sàng như siêu âm và MRI giúp xác định chẩn đoán, vị trí và mức độ tổn thương, với siêu âm thường ít tốn kém hơn nhưng yêu cầu bác sĩ có kinh nghiệm.
Hội chứng Poland
Hội chứng Poland là một dị tật bẩm sinh đặc trưng bởi sự khuyết tật một bên cơ ngực. Bệnh nhân thường có các đặc điểm như ngón tay trỏ, giữa và nhẫn ngắn một bên, bàn tay nhỏ hơn và không có phần cơ ức.
Các bệnh lý khác
Trong một số trường hợp hiếm, cơ ngực lớn có thể hình thành u mỡ (lipoma). Những khối u này đôi khi có thể bị nhầm lẫn với u ác tính vú vì chúng có vẻ giống các khối u phì đại của vú. Vị trí của chúng có thể được xác định rõ ràng bằng chụp cắt lớp vi tính và MRI. Những trường hợp này thường cần phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn do nguy cơ chuyển thành liposarcoma (ung thư tế bào mỡ) rất cao. Cắt bỏ một phần có thể dẫn đến tái phát của u mỡ.
Hình ảnh thêm
- Cơ ngực bé, một cơ nhỏ nằm phía sau cơ ngực lớn
Đoạn văn này được lấy từ trang 436, sách Gray's Anatomy, ấn bản lần thứ 20 (1918).
Liên kết ngoài
- Cơ ngực lớn trong Atlas Cơ của Khoa Chẩn đoán Hình ảnh, Đại học Washington
- UCC
- www.polands-syndrome.com
- Hình ảnh MRI cho thấy tổn thương cơ ngực lớn Lưu trữ 2017-02-16 tại Wayback Machine