Cổ Nhuế là một khu vực thuộc quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Lịch sử
Làng Cổ Nhuế được thành lập vào thời kỳ đầu triều Lý và có mối liên hệ mật thiết với kinh thành Thăng Long. Trước đây, Cổ Nhuế thuộc xã của huyện Từ Liêm cũ, nổi danh với nghề may truyền thống. Khi quận Bắc Từ Liêm được thành lập, xã Cổ Nhuế được chia thành hai phường mới trực thuộc quận là Cổ Nhuế 1 và Cổ Nhuế 2.
Cổ Nhuế là vùng đất có lịch sử lâu đời gắn liền với người Việt cổ. Những hiện vật như rìu đá, hòn nghiền, gạch vuông hoa trám thời Hán, tượng cá hoá rồng thời Lý – Trần, cùng các đồ dùng của người Việt cổ đầu tiên tìm thấy tại đây chứng minh sự hiện diện của con người từ hơn 2000 năm trước. Tên gọi Cổ Nhuế có thể xuất phát từ việc vùng đất này xưa có nhiều ngòi nước, được gọi là Noi. Ngay từ thời Hai Bà Trưng (năm 40), khu vực này đã là nơi hoạt động của nhiều tướng lĩnh nổi tiếng như Quách Lãng, Đinh Bạc, Tĩnh Nương trong cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Hán.
Khi các triều đại phong kiến Trung Hoa đến xâm lược, để thuận tiện cho việc ghi chép bằng chữ Hán, mỗi làng phải có một tên chữ (âm Hán - Việt). Khác với tên Nôm thường chỉ có một từ (ngoại trừ từ Kẻ đứng trước), tên chữ thường có ít nhất hai từ. Điều này cho thấy các làng cổ trước thời kỳ Bắc thuộc đều có hai tên: tên Nôm (kèm Kẻ) và tên chữ. Đây là bằng chứng cho thấy Kẻ Noi hay Cổ Nhuế hiện tại đã tồn tại trước khi các phong kiến phương Bắc xâm lược nước ta. Theo cách nhìn này, các làng cổ ven đô Thăng Long với chữ Kẻ (có thể hiểu là người sống ở làng) trước tên Nôm có nguồn gốc từ hơn 2000 năm trước (trích từ bài viết Cổ Nhuế, ngôi làng của những truyền thuyết đăng trên trang ditichlichsuvanhoa.com).
Theo cuốn Từ điển Hà Nội - địa danh, xã Cổ Nhuế xưa có tên Nôm là Kẻ Noi, thuộc tổng Cổ Nhuế, phủ Hoài Đức. Thời Pháp thuộc, trước năm 1942, khi bỏ cấp tổng, Cổ Nhuế gồm ba xã (theo hệ thống xã thời Nguyễn): Trù Đống (hay Chùa Đống), Hoàng (hay Cổ Nhuế Hoàng), và Viên (hay Cổ Nhuế Viên). Năm 1945, ba xã này (hiện nay là xã Cổ Nhuế) thuộc quận V, ngoại thành Hà Nội. Đến năm 1961, xã Cổ Nhuế được thành lập, các xã cũ trở thành thôn và Trù Đống được chia thành hai phần: Cổ Nhuế Trù (hay Chùa (thôn)) và Cổ Nhuế Đống. Từ đó, xã Cổ Nhuế gồm bốn thôn. Hai làng Cổ Nhuế Trù và Đống vốn là một làng Cổ Nhuế (tên Nôm Kẻ Noi) đã tách ra vào giữa thời Lý. Trước đầu thế kỷ XX, hai làng nằm trong xã Cổ Nhuế (cùng với các làng Cổ Nhuế Hoàng và Cổ Nhuế Viên) thuộc tổng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây (từ thời Nguyễn là tỉnh Hà Nội, năm 1888 trở đi là tỉnh Cầu Đơ, năm 1904 đổi thành tỉnh Hà Đông). Năm 1926, hai làng tách ra thành một xã riêng gọi là Cổ Nhuế Trù - Đống, dân số lúc đó là 2034 người.
Sau Cách mạng Tháng Tám, xã Cổ Nhuế Trù - Đống được hợp nhất với hai xã Cổ Nhuế Hoàng và Cổ Nhuế Viên để trở thành xã Cổ Nhuế thuộc quận 5 ngoại thành Hà Nội. Đến năm 1961, xã Cổ Nhuế trở thành một xã của huyện Từ Liêm. Vào tháng 12 năm 2013, xã Cổ Nhuế được chia thành hai phường mới: Cổ Nhuế 1 và Cổ Nhuế 2 thuộc quận Bắc Từ Liêm mới được thành lập.
Hai làng Cổ Nhuế Trù và Cổ Nhuế Đống xưa là các làng nông nghiệp nổi tiếng với truyền thống canh tác lúa và hoa màu. Tuy nhiên, vào năm Ất Mão dưới triều đại Duy Tân (1915), đê Liên Mạc bị vỡ, dẫn đến việc đồng ruộng ở tỉnh Hà Đông bị cát bồi lấp, khiến việc trồng lúa bị giảm từ hai vụ xuống một vụ mùa, còn vụ chiêm phải chuyển sang trồng ngô, khoai lang và các loại đậu. Nhờ kinh nghiệm thâm canh, người dân đã tạo ra giống ngô nếp dẻo thơm nổi tiếng trong vùng. Từ năm 1920, khi sản xuất nông nghiệp giảm sút, dân làng đã học nghề may để sinh sống. Từ vài hộ ban đầu, đến năm 1935, cả hai làng có vài trăm hộ làm nghề may, sau đó lan sang các làng Cổ Nhuế Hoàng và Cổ Nhuế Viên. Nhiều thợ may của hai làng vào nội thành làm thuê cho các nhà thầu hoặc may quần áo cho binh lính, nhiều người đã mở hiệu may riêng. Một số chủ hiệu may ở phố Hàng Trống đã lấy tên của một thợ may nổi tiếng người Cổ Nhuế làm tên cửa hiệu để thu hút khách hàng.
Về di tích lịch sử, thôn Đống có ngôi nhà thờ ông Nguyễn Hữu Đạo, một quan Thái y viện - cơ quan chăm sóc sức khỏe của vua và hoàng tộc thời Lê - Trịnh, người đã chữa khỏi bệnh cho Hoàng hậu, vợ vua Lê Hiển Tông. Sau đó, ông Đạo còn theo quân ra trận, lập nhiều công lao và được phong làm Thống suất binh Nam, Thượng tướng quân. Nhà thờ được xây dựng bằng 36 cột đá, do chính vua Lê Hiển Tông tặng sau khi ông Đạo về hưu. Trong nhà thờ hiện còn một bảng khắc gỗ ghi bài thơ thất ngôn bát tuyệt ca ngợi tài đức của ông Đạo, đặc biệt có một câu chứa một từ chỉ một vị thuốc quý mà ông đã dùng để chữa bệnh.
Thôn Trù còn lưu giữ một ngôi miếu nhỏ, bên trong có tấm bia được dựng vào năm Vĩnh Khánh thứ hai (1731). Bia ghi nhận công lao của ông Đỗ Pháp Hiển, một quan chức trong đội Cấm quân, người đã bảo vệ vua trong chuyến tuần thú và cứu thoát đoàn thuyền khỏi bão ở cửa biển Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hóa). Vì không có con cái, ông đã hiến toàn bộ ruộng đất của mình cho làng và được phong tôn làm hậu thần của làng.
Đình chùa và nhà thờ
Cổ Nhuế sở hữu nhiều đình, chùa và nhà thờ, phân bố ở cả bốn làng Hoàng, Đống, Trù và Viên. Trong đó có ba ngôi chùa nổi bật: Chùa Sùng Quang (Thôn Đống 2), Chùa Anh Linh (Thôn Viên 1), và Chùa Trùng Hưng (Thôn Hoàng 2). Ngoài ra, có hai ngôi đình ở thôn Viên 2 và Hoàng 2, thờ thành hoàng làng là Hoàng Tử Đông Chinh Vương (Lý Công Lực, con trai vua Lý Công Uẩn) và Đền Bà Chúa thờ Túc Trinh công chúa, con gái vua Trần Thánh Tông. Lễ hội của làng được tổ chức vào ngày 10 tháng 2 âm lịch hàng năm, còn lễ tế thành Hoàng làng vào ngày 10 tháng 10 âm lịch. Thêm vào đó, thôn Viên 1 và Viên 2 tổ chức Lễ mộc dục và Lễ cúng thực vào ngày 1 tháng 8 âm lịch hàng năm để tưởng nhớ Công chúa Túc Trinh thời Trần.
Theo truyền thuyết, Đông Chinh Vương sau khi đánh thắng trở về đã được dân làng đón rước và mừng chiến thắng. Để đáp lại lòng trung thành của dân làng Cổ Nhuế, Đông Chinh Vương đã xin vua ban cho Cổ Nhuế làm thực ấp vào năm 1027, và dân làng được miễn thuế suốt triều Lý. Làng Cổ Nhuế, trước đây gọi là Kẻ Noi, đã được các bô lão xin vua phong tên Cổ Nhuế vào năm 1028. Đình Cổ Nhuế thờ Thành hoàng Đông Chinh Vương, vợ và em gái là Công chúa Tả Minh Hiến, người đã xây dựng đình và chùa Sùng Quang theo di nguyện của Đông Chinh Vương. Để tri ân Công chúa, dân làng đã xin vua cho thờ bà trong đình và được chấp thuận. Công chúa được thờ ở bên tả trong Đình và được tôn vinh là Bà chúa (theo Lễ hội Thăng Long, tác giả Lê Trung Vũ, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2001).
Trước thời kỳ Trần, Cổ Nhuế chỉ bao gồm ba thôn: Hoàng, Trù (Chùa), và Đống. Vào thời Trần, Công chúa thứ tư của vua Trần Thánh Tông, Công chúa Túc Trinh, được cử đến Cổ Nhuế để khai khẩn và mở ra Viên trại, sau này được gọi là thôn Viên hay Cổ Nhuế Viên. Công chúa được lập miếu thờ tại thôn Viên để ghi nhận công lao lập làng của bà. Bà sống với dân làng và không lấy chồng, còn chiêu mộ dân để lập trại Noi, sau thành làng Cổ Nội, rồi đổi tên thành Yên Nội. Trước Cách mạng tháng Tám, Yên Nội thuộc Tổng Cổ Nhuế và sau đó chuyển sang xã Liên Mạc. Do đó, dân làng Cổ Nhuế và Yên Nội có quan hệ gần gũi vì cùng chung nguồn gốc do Công chúa Túc Trinh khai sáng. Hiện nay, dân làng Cổ Nhuế và Yên Nội (xã Liên Mạc, nay là phường Liên Mạc) cùng thờ bà làm thần hoàng làng và gọi bà là Bà chúa Kẻ Noi, tượng bà được thờ tại chùa Viên với tên chữ “Anh Linh tự”. Truyền thuyết ghi rằng chùa được xây dựng từ thời Công chúa lập trại, và sự kiện này được ghi trong Đại Việt Sử ký Toàn thư.
Trong đình hiện có: 17 đạo sắc phong từ triều đại Cảnh Hưng đến Khải Định, một cuốn ngọc phả ghi chép về thành hoàng làng, bốn bức đại tự, một đôi câu đối sơn son thếp vàng ca ngợi công đức triều Lý, ba ngai thờ, một kiệu bát cống khắc chữ “Cảnh Hưng Giáp Thìn niên” (1784), một bộ sập thờ, một đôi voi đá, một quả chuông niên hiệu Thành Thái Kỷ Hợi (1899), cùng với hai bộ tam sự, ba bát nhang lớn và nhiều đồ sứ quý giá.
Công đức của Đông Chinh Vương được ghi lại trên câu đối trong đình, mang ý nghĩa lịch sử quan trọng.
“Cổ Pháp thiệu cơ, Lý lệnh trụ lưỡng triều khai thế
Nhuệ Giang hiển tích, Việt phúc thần lịch đại bảo phong”
Dịch nghĩa:
(Cổ Pháp xây dựng nền móng, triều Lý mở rộng ảnh hưởng qua hai triều đại)
Nhuệ Giang lưu giữ dấu vết, các thần của Việt Nam được tôn vinh qua các thời kỳ).
(Theo Lễ hội Thăng Long, tác giả Lê Trung Vũ, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2001)
Kể từ thập niên 1970, các nhà khảo cổ đã phát hiện một số di vật dưới lòng đất tại đây, bao gồm: rìu đá, hòn nghiền, hòn cà bằng đá, gạch vuông có hoa văn trám lồng thời Hán, và tượng cá hóa rồng thời Lý - Trần.
Nhà thờ Cổ Nhuế nằm tại thôn Viên, được xây dựng từ năm 1884. Tóm tắt lịch sử có thể như sau:
Tin Mừng đã đến với Giáo xứ Cổ Nhuế vào năm 1883, dưới sự dẫn dắt của cha cố Mỹ, đồng thời là năm giáo xứ chính thức được thành lập. Sau khi giáo xứ được thành lập, nhiều gia đình đã quyên góp hơn 15.000 m2 đất để trồng trọt và xây dựng nhà thờ, trong đó có Bà Tổng Chiêu thôn Hoàng đã dâng 3.600 m2.
Nhà thờ đầu tiên được xây dựng vào năm 1884 với cấu trúc tường gạch, cột gỗ và mái ngói. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1947, một số đối tượng xấu đã chất rơm rạ lên ghế trong nhà thờ và phóng hỏa. Nhà thờ bị thiêu rụi, chỉ còn lại bốn bức tường. Năm 1953, cha cố Giuse Trần Ngọc Liễn đã chỉ đạo sửa chữa nhà thờ và đến năm 1954, Đức Tổng Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê đã tổ chức lễ tạ ơn và khánh thành. Mặc dù đã được tu sửa, nhưng nhà thờ cũ không còn đủ điều kiện sử dụng do chịu tác động của thiên nhiên và con người.
Nhận thấy sự cần thiết phải xây dựng một ngôi thánh đường mới để đảm bảo an toàn và đáp ứng nhu cầu của cộng đoàn giáo xứ, vào ngày 5 tháng 3 năm 2014, Đức Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn đã phê duyệt việc tháo dỡ nhà thờ cũ để xây dựng nhà thờ mới. Ngày 28 tháng 11 năm 2014, thành phố Hà Nội cấp phép xây dựng cho giáo xứ, và đến ngày 6 tháng 10 năm 2018, nhà thờ mới được cung hiến và khánh thành.
Truyền thống nghề may của xã
- Ngành may ở Cổ Nhuế có truyền thống lâu đời. Khoảng năm 1920, do nông nghiệp gặp khó khăn, người dân Cổ Nhuế đã chuyển sang làm nghề may để kiếm sống. Ban đầu chỉ có ông Trưởng Cốm ở thôn Trù và vài người làm nghề này, sau đó ngành may phát triển nhanh chóng. Đến năm 1935, toàn xã đã có hàng trăm máy may, nhiều người bắt đầu mở cửa hiệu may, còn những người không có vốn thì làm thuê. Một số thợ may xuất sắc còn được chủ hiệu đặt tên cho cửa hàng của mình. Trong thời kỳ bao cấp, xã thành lập các hợp tác xã may gia công hàng xuất khẩu và phục vụ nhu cầu địa phương. Sau khi các hợp tác xã giải thể, nhiều xã viên đã mua máy về nhà để tiếp tục làm nghề. Từ năm 1990 đến 1992, ngành may phát triển mạnh nhờ vào xuất khẩu hàng sang Ba Lan và Liên Xô, chủ yếu là áo khoác, với quy mô sản xuất hộ gia đình. Lúc cao điểm, làng có hàng trăm hộ chuyên may, nhiều hộ có vốn lên đến hàng tỷ đồng và trở thành những chủ hiệu lớn. Kể từ năm 1993, làng chuyển sang sản xuất hàng nội địa và gia công cho các công ty dưới dạng hộ tư nhân và công ty TNHH. Các sản phẩm của làng nghề rất đa dạng: quần áo mùa hè và mùa đông cho cả người lớn và trẻ em. Nguyên liệu vải được nhập khẩu từ Trung Quốc và công nghệ sản xuất sử dụng máy may công nghiệp. Lao động chủ yếu là công nhân phổ thông, được tự đào tạo. Hiện tại, dù gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường, thiếu vốn và điều kiện sản xuất không đồng đều, làng nghề vẫn tạo việc làm cho khoảng 7.000 lao động với thu nhập ổn định và ký kết một số hợp đồng xuất khẩu. Bên cạnh sản xuất theo hộ gia đình, nhiều công ty TNHH đã được thành lập để gia công cho các xí nghiệp và nhận gia công theo thời vụ cho các hộ nhỏ.
- Từ những năm đầu thế kỷ 20, nghề may không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho dân làng mà còn tạo ra sự thay đổi về cơ cấu dân cư và quan hệ xã hội trong làng, đặc biệt là hình thành đội ngũ công nhân may mặc tay nghề cao và ý thức xã hội tốt. Đây là nền tảng giúp làng Cổ Nhuế sớm tiếp thu tư tưởng cách mạng. Vào mùa hè năm 1938, Hội ái hữu thợ may Cổ Nhuế được thành lập, và nhiều thợ may cùng nông dân đã đấu tranh chống lại việc tăng thuế và thành công. Đại tướng Văn Tiến Dũng (thôn Cổ Nhuế Trù), Thư ký Hội ái hữu thợ dệt Hà Nội, đã viết bài trên báo Tin tức của Đảng CSVN để cổ vũ cuộc đấu tranh. Năm 1939, 600 thợ may Cổ Nhuế tại Sở Quân nhu đã đòi tăng lương. Sau đó, Cổ Nhuế trở thành một điểm trong An toàn khu của Trung ương. Cuối năm 1940, Chi bộ Cổ Nhuế được thành lập và lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân.