1. Truyện cổ tích Thạch Sanh – Lý Thông
Vào thời xa xưa, có một cặp vợ chồng già đóng đinh kiếm sống bằng nghề đốn củi. Dù đã bước qua tuổi 60, họ vẫn chưa được phước đến với đứa con. Tuy cuộc sống khó khăn, họ vẫn tỏ ra hào hiệp và không ngần ngại giúp đỡ mọi người xung quanh. Vì lòng nhân đức và tấm lòng lương thiện của họ, Ngọc Hoàng quyết định sai một thái tử xuống trần gian để làm con của họ.
Sau ba năm chín tháng, khi bà vợ sinh được một đứa con trai, ông chồng tròn đầu tiên đã ra đi. Đứa bé được đặt tên là Thạch Sanh và phải đối mặt với sự cô đơn và khó khăn khi mẹ mình cũng qua đời khi Sanh lên 13 tuổi. Thạch Sanh tiếp tục cuộc sống mưu sinh bằng cách đốn củi và sống bên gốc cây đa.
Một ngày, khi đang đánh bại một con Xà tinh độc ác, Thạch Sanh phát hiện ra rằng nhiệm vụ của mình chưa dừng lại ở đây. Hành trình tiếp theo của chàng là những cuộc phiêu lưu kỳ thú và đầy thách thức để bảo vệ gia đình và đánh bại những thế lực tà ác.
Câu chuyện về Thạch Sanh và những trận đấu đầy cam go đã gặt hái nhiều thành công và trở thành truyền thống dân gian, làm say đắm lòng người với những giá trị văn hóa sâu sắc.
2. Cây khế - Chuyện cổ tích đầy hấp dẫn
Có một gia đình gồm hai anh em, cả cha mẹ đã qua đời. Vì cuộc sống mưu sinh, hai anh em nỗ lực làm việc, nhờ đó gia đình có đủ để sống. Để tạo niềm vui, cả hai anh em quyết định kết hôn. Tuy nhiên, kể từ khi có vợ, anh anh trở nên lười biếng, mọi công việc khó khăn đều đẩy sang cho hai vợ chồng em. Hai vợ chồng em thức khuya dậy sớm, chăm chỉ làm đất, trồng cây, phân bón, làm cho mảnh đất trở nên màu mỡ, và đến khi mùa gặt, họ đạt được thành công lớn. Nhận thức được rằng em có thể chiếm lấy phần nhiều hơn, anh anh lo sợ và quyết định cho hai vợ chồng em sống riêng.
Sống độc lập với vợ, anh em được anh anh phân phối một căn nhà tranh tình cảm, trước nhà có một cây khế ngọt. Hai vợ chồng em không than phiền, họ nỗ lực đốn củi trong rừng để bán, cũng như đi làm thuê. Anh anh, có bao nhiêu ruộng đất, đều chia nhỏ để làm rẽ, chỉ để ngồi thư giãn với vợ. Thấy em không phàn nàn, anh anh coi em như người ngu dốt, càng trở nên kiêu ngạo, không bao giờ ghé thăm nhà em và cũng không để ý đến em nữa.
Những ngày hạnh phúc nhất của hai vợ chồng em là những ngày cây khế chín. Qua cả năm, hai vợ chồng chăm sóc và diệt sâu cho cây khế, làm cho cây khế xanh mơn mởn, bóng rợp khắp khu vườn nhỏ, quả chín đều trải đều trên những cành thấp, thuận tiện để hái. Một buổi sáng, hai vợ chồng mang cồng và thúng ra gốc cây, chuẩn bị hái quả để bán ở chợ, nhưng khi nhìn lên cây, họ thấy cây rung động mạnh mẽ, như có người đang leo lên. Họ nhìn lên và thấy một con chim to lớn đang thưởng thức những quả khế chín vàng. Hai vợ chồng đứng dưới cây nhìn con chim ăn, đợi chim bay đi mới leo lên cây để hái quả. Từ đó, mỗi buổi sáng tươi mới, hai vợ chồng ra hái khế, lại thấy con chim đang ở trên cây. Thấy có người, con chim vẫn ăn thoải mái, ung dung một thời gian, sau mới vỗ cánh bay đi. Chim ăn rất rất lâu, cây khế còn chẳng còn một quả nào.
Một ngày, khi đang đợi con chim ăn xong, người vợ nửa đùa nửa nói với chim: “Chim ơi, chim ăn như thế thì cây khế của nhà tôi còn gì nữa! Cây khế nhà tôi cũng sắp hết quả rồi đấy, chim ạ!”. Con chim bỗng nhíu mày, nheo mắt như cười, đáp lại: “Ăn một quả, trả cục vàng! May túi ba gang, đem đi mà đựng”. Con chim nhắc đi nhắc lại câu đó ba lần, sau mới vỗ cánh bay đi. Hai vợ chồng thấy con chim biết nói thật là kì lạ, và càng lạ là con chim nói như thế, nhắc lại câu đó ba lần, nghe rõ mồn một, khiến họ suy nghĩ và phân vân. Nhưng rồi hai vợ chồng cũng tuân theo lời con chim. Người vợ làm một cái túi ba gang cho chồng, có chiều dài chín gang, giống như một cái túi tay lớn.
Sáng hôm sau, hai vợ chồng vừa ăn xong, thì thấy một cơn gió mạnh thổi vào sân trước nhà, sau đó, trong nháy mắt, một con chim cực kỳ to lớn hạ xuống giữa sân, quay đầu về nhà và kêu vài tiếng như chào hỏi. Người chồng xách cái túi ba gang ra sân, con chim nằm rụt xuống, quay đầu về phía anh chồng. Anh chồng ngồi lên lưng con chim, bám chặt vào cổ của chim. Chim đứng lên, vỗ cánh bay lên trời xanh. Con chim lúc bay cao, lẩn vào mây trắng; lúc bay thấp, nó nhẹ nhàng trên rừng xanh, đồi núi cao ngất. Con chim bay qua biển lớn, sóng biếc vút lên đánh vào bờ những hòn đảo nhỏ, làm nổi lên những bọt trắng xóa. Anh ngồi trên lưng con chim nhìn thấy biển tuyệt vời, không thể phân biệt được bờ… Chim bay vào một hòn đảo toàn bằng đá trắng, đỏ, xanh, có tất cả các màu sắc, phản chiếu ánh sáng rực rỡ, một cảnh tượng mà anh ta chưa bao giờ thấy. Con chim bay một vòng lớn quanh đảo như muốn tìm một nơi để đậu, rồi bay những vòng nhỏ hơn, có lúc anh ta nghĩ mình sắp va vào những tảng đá khổng lồ. Khi bay đến trước hang động lớn và sâu, con chim chậm rãi hạ xuống. Đặt chân xuống đất, anh ta nhìn chung quanh, không thấy bất kỳ sinh linh nào, không có cỏ, không có chim.
Con chim nhấc đầu, bảo anh ta vào hang, lấy bất cứ thứ gì anh ta muốn. Ngay cửa hang, anh ta thấy toàn bộ những thứ đá trong suốt như thủy tinh và hổ phách ở mọi màu sắc; có màu xanh như mắt mèo, có màu đỏ ối như mặt trời, và vàng bạc nhiều như sỏi đá. Thấy hang động sâu rộng, anh ta không dám vào vì sợ lạc lõng. Anh ta nhặt một ít vàng và kim cương, bỏ vào túi ba gang, sau đó trèo lên lưng con chim, ra hiệu để con chim bay về.
Con chim chờ lâu quá, liên tục kêu vài tiếng vang trên toàn đảo, thúc đẩy anh ta về. Gần chiều, anh ta mới kéo được cái túi ba gang chứa vàng và kim cương đến nơi con chim đang chờ. Muốn tránh việc rơi, anh ta đặt cái túi dưới cánh của con chim, sau đó dùng dây thừng buộc chặt cái túi vào lưng của con chim và vào cổ của mình.
Con chim vỗ cánh bay lên, nhưng vì nặng quá, chỉ bay lên một chút rồi lại rơi xuống. Sau đó, con chim cố gắng đạp chân xuống đất mạnh mẽ, vươn cổ bay lên. Anh chàng ngồi trên lưng con chim sung sướng, cho rằng chỉ trong nháy mắt mình sẽ về đến nhà, sẽ có những căn nhà rộng lớn, ruộng đất khắp nơi, tiêu pha hết đời mà cũng không đủ. Khi ấy, con chim đã bay lên trên biển cả. Trời đổi gió, những con sóng xám xì đánh cao lên bằng vài ngôi nhà. Con chim bay ngược gió mệt mỏi, cổ gập xuống, cánh mỗi lúc một yếu đi. Cái túi vàng lớn bị gió đẩy mạnh vào cánh của con chim. Con chim buông tự do hai cánh, rơi xuống từ trời xuống biển. Trong chớp mắt, anh chàng bị sóng cuốn đi, chiếc túi lớn và những ống quần, tay áo chứa đầy vàng và kim cương, dìm anh ta xuống đáy biển rất nhanh.
Chỉ còn con chim bị ướt lông, ướt cánh một lúc, sau đó con chim lại vùng lên khỏi mặt nước, bay về núi, về rừng.
3. Cây Tre Trăm Đốt
Một thời xa xưa, ở một ngôi làng quê, có một ông già lão luyện có một cô gái xinh đẹp. Trong nhà, ông đã thuê một chàng tớ chăm chỉ, và ông ấy nảy sinh một ý định để lợi dụng chàng tớ mà không cần trả công. Ông ta nói: “Nếu mày làm việc cật lực và làm ăn với tao, tao sẽ gả con gái tao cho mày”. Chàng trai vui mừng đồng ý và làm việc từ sáng đến tối, không biết mệt mỏi. Ba năm trôi qua, gia đình ông già ngày một giàu có.
Tuy nhiên, ông già quên mất lời hứa, và cuối cùng, ông đã gả con gái cho một chàng trai giàu có khác trong làng.
Ngày sắp rước dâu, ông lại triệu chàng tớ lên và lừa dối nó một lần nữa. Ông nói: “Bây giờ, mày hãy lên rừng và tìm một cây tre có đủ trăm đốt để mang về, tao sẽ cho mày cưới con gái tao ngay lập tức”.
Chàng trai tin tưởng và cầm theo chiếc dao rừng. Nhưng sau một hồi tìm kiếm khắp nơi, chẳng thấy cây tre nào đủ trăm đốt cả. Buồn bã, nó ngồi xuống và khóc. Bất ngờ, một ông lão già có râu tóc bạc phơ, cầm gậy trúc xuất hiện và hỏi nó: “Tại sao mày khóc? Hãy kể cho ta nghe, ta sẽ giúp mày”. Chàng trai kể về lời hứa gả con gái của ông già phú hộ và ông ta đã lừa dối nó. Ông lão nghe xong, bảo: “Mày hãy đi chặt đếm đủ trăm đốt tre rồi mang về đây”.
Chàng trai làm theo lời dặn, ông lão dạy nó đọc lên: “Khắc nhập, khắc nhập” (vào ngay, vào ngay) ba lần, thì một cây tre dài tự nhiên liên kết với nhau thành một cây tre đủ trăm đốt. Hạnh phúc, nó định mang cây tre về nhà, nhưng cây quá dài và nó không thể vận chuyển được. Ông lão bảo nó đọc: “Khắc xuất, khắc xuất” (ra ngay, ra ngay) cũng ba lần, cây tre trăm đốt lại giải rời thành từng khúc.
Nó cuộn cây lại và gác lên vai mang về nhà. Khi đến nơi, nó nhận ra rằng ông chủ đã lừa dối nó và đã gả con gái cho người khác. Nó không nói gì, chờ đến khi nhà chồng đốt pháo cưới, nó mới trải cây tre dài ra đất. Nó đọc: “Khắc nhập, khắc nhập” và cây tre lại hóa thành một cây tre trăm đốt nguyên vẹn. Đứa trẻ như thần kỳ này khiến mọi người kinh ngạc.
Ông chủ bỗng nhiên đến và bảo rằng ông đã tìm ra cây tre, và hứa gả con gái cho nó ngay lập tức. Ông lão thông gia xin được về nhà, nó để cho cả hai thề một hồi rồi mới đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Lúc đó, cả hai ông mới rời khỏi cây tre, và cây tre cũng giữ nguyên trạng thái trăm đốt.
Mọi người đều kinh ngạc và tôn trọng chàng trai. Ông chủ vội vàng gả con gái cho nó, và từ đó về sau, không ai dám khinh thường nó nữa.
4. Chuyện kể về Viên ngọc ước
Một lúc xưa, có một chàng trai làm công việc chăn trâu cho một gia đình giàu có. Một hôm, anh ta dẫn trâu ra đồng để ăn cỏ.
'Một, ha, ba, bốn...một hai ba, bốn...một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy... Hả! Mất rồi, đếm lại coi. Đâu rồi, đâu rồi...một, hai, ba...'.Thật không may, trâu bị mất.'Cái gì? Mất trâu của ta hả, còn dám về đây sao? Mau đền con trâu lại cho ta'.'Ông ơi, ông tha cho con, con làm gì có tiền mà đến cho ông hả ông?'
'Không nói nhiều, không đền thì ông gông cổ lên quan đó'.
'Trời ơi, bây giờ làm sao đây? Mất con trâu thì lần này tiêu thật rồi, nghèo lại gặp cái xui nữa, khổ ghê...'.
Chàng trai nằm suy nghĩ không biết phải làm gì thì bỗng nhiên, một con quạ bay đến. Quạ tưởng là cái xác chết nên xà xuống.
'Hả...'
Anh nhanh tay tóm được nó.
'Muốn ăn thịt ta hả? Ta phải giết mi mới được'.
'Xin cậu làm ơn tha cho tôi đi, tôi còn phải nuôi một đàn con nhỏ ở nhà nữa'.
Nghe vậy, anh trai thương tình thả quạ ra.
'Thôi được rồi, ta tha cho ngươi đấy, đi về đi'.
Trước khi bay đi, quạ nhả ra một viên ngọc.
'Cảm ơn anh đã tha mạng, tôi tặng anh thứ này, đây là viên ngọc ước, có nó anh ước gì cũng được ngay'.
Chàng trai thử.
'Hử, ngọc ước hả...ta thử xem nào...ước gì ta có một con trâu'
Tức thì một con trâu to béo hiện ra.
'Hehe, con trâu thiệt rồi, ước gì có một ngôi nhà thiệt to...hay quá, vậy thì mình ước có một cô vợ thật là xinh đẹp nào...hả?...'
Chàng trai liền dắt trâu về trả ông chủ rồi xin nghỉ việc. Nhờ viên ngọc, cuộc sống hai vợ chồng đầy đủ, toàn vẹn, nhưng người vợ tham lam muốn cả gia đình mình cũng được sung sướng như vậy.
'Ở nhà nghen, tôi đi làm'.
Trong lúc chồng đi vắng, nàng đánh cắp viên ngọc quý rồi bỏ về nhà bố mẹ.
'Hả...hả...đâu rồi ta...hả'.
'Trời ơi...vợ ơi là vợ...'.
Chàng trai mất viên ngọc, tiếc quá liền đi tìm...
'Mở cửa, mở cửa'.
'Cái gì?...đi về...'.
'Trời ơi, mất ngọc ước rồi, đau lóng quá đi...huhu'.
Bụt hiện ra và hỏi 'Làm sao con khóc?'.
'Chuyện là như vầy...là vầy đó Bụt ơi!'.
Bụt liền bảo 'Thôi đừng khóc nữa, để ta giúp cho con'.
'Nghe lời ta, nhớ nghe, làm như vậy đó'.
Chàng trai làm như lời Bụt dặn, trồng ngay bông hoa trắng trước cửa nhà vợ, bông hoa tỏa ra một mùi hương thơm khác thường khiến cả nhà bên vợ xúm lại ngửi.
'Hừ, thơm ghê bà ha'.
Như lạ thay, vừa ngửi xong, mũi của mọi người nào người nấy cứ dài ra như mũi loài voi, trông thật tức cười.
'Trời ơi, sao mũi tôi lại dài ra, mũi của tôi...'
Chàng trai nghe tin liền đến nhà vợ hỏi thăm.
'Cha ơi, nhà mình có chuyện gì mà buồn rầu vậy cha'.
'Con ơi, không biết nhà ta có tội gì, bị trời phạt như thế này, thiệt là xấu hổ quá con'.
'Hahaha, trời ơi, nhìn mắc cười quá. Là do vợ con nó ăn cắp viên ngọc quý của con đó cha'.
Nghe vậy, ông ta hối lỗi sai trả lại viên ngọc.
'Vậy hả? Trả con nè, chúng ta không cần viên ngọc này nữa đâu'.
Bấy giờ anh mới lấy bông hoa màu đỏ ra cho mọi người ngửi, tức thì mũi của mọi người co lại bình thường như trước. Cả nhà hối hận xin lỗi chàng trai. Hai vợ chồng lại sống hòa thuận với nhau.
5. Chuyện cổ tích Sọ Dừa
Xưa kia, có một đôi vợ chồng nông dân nghèo làm việc cho một gia đình quý tộc. Họ là những người hiền lành, siêng năng nhưng đã trên năm mươi tuổi mà vẫn chưa có đứa con nào. Một ngày, vợ đi rừng lấy củi, trời nắng nóng, khát nước, thấy cái sọ dừa dựa gốc cây đầy nước mưa, bà nâng lên uống. Sau đó, về nhà, bà mang thai. Không lâu sau, chồng bà mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn, muốn vứt đi nhưng đứa bé nói: 'Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp'. Bà để lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Sọ Dừa lớn lên vẫn như vậy, không thể làm gì cả. Mẹ lo lắng và buồn bã. Sọ Dừa xin mẹ để đi chăn bò cho gia đình quý tộc.
Khi nghe nói đến Sọ Dừa, chủ nhân giật mình. Nhưng nghĩ: nuôi nó không tốn nhiều, công việc lại dễ, chủ nhân đồng ý. Nhưng cậu chăn bò rất giỏi. Hàng ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Tất cả bò đều no căng. Chủ nhân vui mừng lắm!
Trong mùa màng, công việc của Sọ Dừa thậm chí nhiều hơn. Chủ nhân sai ba cô con gái đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như vậy, hai cô chị thường hành hạ Sọ Dừa, chỉ có cô em thương cảm và đối xử tốt với cậu.
Một ngày, đến lượt cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Khi đi ngang qua chân núi, cô nghe thấy tiếng sáo ngân nga. Rón rén đi lên, cô thấy một chàng trai tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng thổi sáo cho đàn bò ăn cỏ. Nhưng khi đứng lên, tất cả biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm ở đó. Nhiều lần như vậy, cô út hiểu Sọ Dừa không phải người bình thường và bắt đầu yêu quý cậu.
Khi mùa thu về, Sọ Dừa quay về nhà và nói với mẹ về việc muốn cưới con gái chủ nhân. Bà lão kinh ngạc, nhưng sau khi con nài nỉ mãi, bà đồng ý. Khi mẹ Sọ Dừa đến nhờ hỏi ý con gái chủ nhân, chủ nhân cười và nói: 'Muốn cưới con gái tôi, hãy mang một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười bình rượu tăm đến'.
Bà lão về, nghĩ là cuộc cầu hôn sẽ kết thúc. Nhưng ngày hẹn, bất ngờ trong nhà có đủ mọi đồ cưới và cả gia đình chạy lên khiêng lễ vật đến nhà chủ nhân. Chủ nhân sửng sốt và gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị chê Sọ Dừa xấu xí rồi rời đi, chỉ có cô út hiền lành và yêu thương Sọ Dừa.
Ngày cưới, Sọ Dừa tổ chức bữa tiệc trang trí lộng lẫy, gia đình hân hoan. Khi rước dâu, không ai nhận ra Sọ Dừa xấu xí, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người ngạc nhiên và hạnh phúc, chỉ có hai cô chị vừa ghen tức vừa tiếc nuối.
Từ ngày đó, đôi vợ chồng Sọ Dừa sống hạnh phúc. Không chỉ thế, Sọ Dừa còn rất thông minh. Ngày đêm, cậu đọc sách và cuối cùng, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Nhưng không lâu sau, vua sai Sọ Dừa đi làm sứ giả. Trước khi đi, cậu tặng vợ mình một viên đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để bảo vệ.
Ghen tị với cô em, hai cô chị âm mưu hại cô để lên làm bà chủ. Khi Sọ Dừa vắng nhà, hai cô chị dụ cô út đi chèo thuyền ra biển và đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá nuốt chửng, nhưng may mắn thoát chết bằng con dao. Cô dạt vào hòn đảo, sử dụng dao để mở cá và nướng cá để ăn. Trải qua những ngày trên đảo, hai quả trứng gà nở ra, thành một đôi gà xinh đẹp làm bạn đồng hành với cô út.
Một ngày, một chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống hô lớn: 'ò… ó… oPhải thuyền của quan trạng mang cô tôi về'. Quan trạng thăm hỏa, nhưng khi nhìn thấy vợ, ông hoàn toàn ngạc nhiên vì cô út đã trở thành người đẹp. Hai vợ chồng gặp nhau, hạnh phúc và xúc động. Quan trạng tổ chức tiệc mừng rộn ràng, mời gọi bà con tham gia. Tuy nhiên, ông giữ bí mật vợ trong nhà và không để ai biết. Hai cô chị thấy cô em thì xấu hổ và lén rời đi, từ đó không còn nguyện vọng trở lại.
6. Thần Gióng
Vào thời Hùng Vương, có một bà già sống một mình. Một ngày, bà phát hiện dấu chân lớn nát luống cà. Bà kinh ngạc kêu lên: – “Chân to thế này là của ai vậy?”.
Khi bà chạm thử bàn chân vào dấu chân lạ, bà có thai. Sau một thời gian, bà sinh được một đứa con trai khỏe mạnh tên là Gióng. Nhưng đến ba tuổi, Gióng vẫn nằm ngửa, không biết nói hay cười.
Những kẻ giặc Ân xâm nhập và gây họa. Vua Hùng phải tìm người giúp mình. Một ngày, sứ giả đến làng nơi Gióng sống. Nghe về việc cầu tài năng giúp nước, bà mẹ Gióng bảo con trêu đùa:
– Con à! Con chậm chạp như vậy, khi nào mới đánh giặc giúp vua đây?
Không ngờ Gióng nói:
– Mẹ gọi sứ giả đến đây cho con!
Sau đó, Gióng im lặng. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ, đi kể chuyện cho xóm nghe. Mọi người đều kinh ngạc. Một người nói:
– Ta sẽ mời sứ giả đến để xem nó muốn gì.
Khi sứ giả đến, họ thắc mắc:
– Đứa trẻ mới biết nói, muốn gì ở chỗ này?
Gióng trả lời chắc chắn:
– Về nhà vua rèn cho ta một con ngựa sắt, thanh gươm sắt, giáp sắt và nón sắt, ta sẽ đánh đuổi giặc dữ!
Mọi người thấy lạ. Vua Hùng phải gọi thợ rèn làm ngựa, gươm, giáp và nón theo yêu cầu của Gióng. Mọi thứ nặng nề khó tin. Vua phải mobilize hàng ngàn quân lính để chở vật phẩm đến cho Gióng.
Khi quân lính đang kéo ngựa sắt đến làng, mẹ Gióng lo sợ chạy về nói với con:
– Con ơi! Công việc của nhà vua không đùa được. Bây giờ quân lính sắp đến nơi, làm thế nào bây giờ?
Nghe vậy, Gióng ngồi dậy và nói:
– Mẹ hãy cho con ăn nhiều hơn!
Mẹ nấu cơm cho con ăn, nhưng mỗi lần nấu cơm, Gióng ăn hết nồi. Mọi người trong xóm đều gửi đến gạo, khoai, trâu, rượu, hoa quả, bánh tráng. Nhưng Gióng ăn không ngừng.
Sau đó, Gióng bảo:
– Mẹ hãy kiếm vải cho con mặc.
Người ta mang vải lụa đến để may áo quần cho Gióng. Nhưng với thân thể lạ kỳ, áo quần vừa xong đã chật người, phải dùng thêm vải để làm rộng, dài. Đầu Gióng chạm nóc nhà. Mọi người không kịp kinh ngạc, quân lính cũng hì hục kéo ngựa, gươm, giáp và nón sắt đến. Gióng đứng ra, cởi giáp, bỏ nón, và ngựa lên trời.
Sau khi chiến thắng, để tưởng nhớ anh hùng, vua Hùng lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong làm Phù Đổng Thiên Vương.
Ngày nay, có những dấu vết như dãy ao tròn kéo dài từ Kim Anh, Đa Phúc đến Sóc Sơn, được cho là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa nay là làng Cháy. Những cây tre Gióng đã nhổ ném vào giặc, bị lửa đốt màu xanh chuyển sang màu vàng và để lại những vết cháy, được gọi là tre là ngà (hoặc đằng ngà).
7. Chuyện Tấm Cám
Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ, chị tên là Tấm, em tên là Cám. Mẹ Tấm mất sớm, sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua đời, Tấm ở với dì ghẻ là mẹ Cám. Bà mẹ kế này rất cay nghiệt, bắt Tấm phải làm hết mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc chăn trâu cắt cỏ. Trong khi đó Cám được nuông chiều không phải làm gì cả.
Một hôm bà ta cho hai chị em mỗi người một cái giỏ bảo ra đồng xúc tép, còn hứa "Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ". Ra đồng, Tấm chăm chỉ bắt được đầy giỏ, còn Cám thì mải chơi nên chẳng bắt được gì.
Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:
- Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu. Nghe tiếng khóc của Tấm, Bụt liền hiện lên hỏi:
- Làm sao con khóc ?
Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:
- Thôi con hãy nín đi ! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?
Tấm nhìn vào giỏ rồi nói: - Chỉ còn một con cá bống.
- Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn con nhớ gọi như thế này:
Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.
Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy !
Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ mỗi bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày càng lớn lên trông thấy.
Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe. Tối hôm ấy mụ dì ghẻ lấy giọng ngọt ngào bảo với Tấm:
- Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mang bát cơm ra giếng cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt.
Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng, Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:
- Con làm sao lại khóc ?
Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:
- Con bống của con, người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi ! Rồi về nhặt xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.
Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm:
- Cục ta cục tác ! Cho ta nắm thóc, ta bưới xương cho !
Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ vào lọ và đem chôn dưới chân giường như lời bụt dặn.
Ít lâu sau nhà vua mở hội trong mấy đêm ngày. Già trẻ gái trai các làng đều nô nức đi xem, trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bẩy dập dìu tuôn về kinh như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài, sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:
- Khi nào nhặt riêng gạo và thóc ra hai đấu thì mới được đi xem hội.
Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm tủi thân òa lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:
- Làm sao con khóc?
Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:
- Dì con bắt phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội, lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi còn gì mà xem.
Bụt bảo: - Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai chim sẻ xuống nhặt giúp.
- Nhưng ngộ nhỡ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ bị đòn.
- Con cứ bảo chúng nó thế này:
Rặt rặt (con chim sẻ) xuống nhặt cho tao
Ăn mất hạt nào thì tao đánh chết
Thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu.
Bụt vừa dứt lời, ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng nó lăng xăng ríu rít chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại bảo:
- Con làm sao lại khóc?
- Con rách rưới quá, người ta không cho con vào xem hội.
- Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ thứ cho con trẩy hội.
Tấm vâng lời, đi đào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một cái áo mớ ba, một cái áo xống lụa, một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi hài thêu. Đào lọ thứ ba thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuông đất bỗng chốc nó đã hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.
Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua một cây cầu đá, Tấm đánh rơi một chiếc hài xuống nước, không cách nào mò lên được.
Khi đoàn xa giá chở vua đi qua cầu, con voi ngự bỗng nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem, họ mò được một chiếc hài thêu rất tinh xảo và xinh đẹp. Vua ngắm nghía chiếc hài hồi lâu rồi hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái xem hội ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giầy thì vua sẽ lấy làm vợ.
Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giầy. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chẳng có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm, Cám mách mẹ:
- Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử hài đấy!
Mụ dì ghẻ bĩu môi:
- Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre!
Nhưng khi Tấm đặt chân vào hài thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc hài giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.
Tuy sống sung sướng trong hoàng cung. Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bùng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:
- Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo lên xé lấy một buồng cau để cúng bố.
Tấm vâng lời trèo lên cây cau, lúc lên đến sát buồng thì ở dưới này mụ dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển, Tấm hỏi:
- Dì làm gì dưới gốc thế ?
- Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây cau đã đổ. Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột áo quần của Tấm cho con mình mặc vào cung nói dối với vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe nói trong bụng không vui, nhưng không biết phải làm thế nào cả.
Lại nói chuyện Tấm chết hóa thành chim Vàng anh, chim bay một mạch về kinh đến vườn ngự. Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, Vàng anh dừng lại trên cành cây, bảo nó:
- Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Rồi chim Vàng anh bay thẳng vào cung rồi đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm không nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:
- Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo.
Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm vua chỉ mải mê với chim, không tưởng đến Cám.
Cám vội về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, nhân lúc vua đi vắng, Cám bắt chim làm thịt nấu ăn rồi vứt lông chim ở ngoài vườn.
Lông chim vàng anh chôn ở vườn hoá ra hai cây xoan đào. Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng, như hai cái lọng. Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc vọng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào Vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.
Cám biết chuyện ấy lại về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt cây xoan đào lấy gỗ đóng khung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:
- Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Nhưng khi khung cửi đóng xong. Cám ngồi vào dệt lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình :
Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị.
Chị khoét mắt ra
Thấy vậy Cám sợ hãi, vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi, rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó đem tro đã đốt đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung.
Đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá xum xuê. Đến mùa có quả, cây thị chỉ đậu được có một quả, nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Một bà lão hàng nước gần đó có một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngẩng đầu nhìn lên thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra nói lẩm bẩm:
- Thị ơi thị à, rụng vào bị bà, bà để bà ngửi chứ bà không ăn.
Bà lão nói vừa dứt lời, thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉng thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.
Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay, nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm lấy chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái rau ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào quả thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon, canh ngọt sẵn sàng, thì lấy làm lạ.
Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại nhìn vào khe cửa. Khi thấy cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị.
Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con. Hàng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bánh, têm trầu để cho bà bán hàng.
Một hôm vua đi chơi ra khỏi hoàng cung, Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ, bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng, vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền hỏi :
- Trầu này ai têm?
- Trầu này con gái lão têm - bà lão đáp.
- Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt
Bà lão gọi Tấm ra. Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà lão hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.
Cám Thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa, thì không khỏi ghen tỵ. Một hôm, Cám hỏi chị :
- Chị Tấm ơi, chị Tấm! Chị làm thế nào mà đẹp thế ?
Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:
- Có muốn đẹp không để chị giúp !
Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Tấm sai đem xác làm mắm bỏ vào chĩnh gửi cho mụ dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ Cám tưởng thật, lấy mắm ra ăn, bữa nào cũng nức nở khen ngon. Một con quạ ở đâu bay đến đậu trên nóc nhà kêu rằng:
- Ngon ngỏn ngòn ngon ! Mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng.
Mẹ Cám giận lắm, chửi mắng ầm ĩ rồi vác sào đuổi quạ. Nhưng đến ngày ăn gần hết, dòm vào chĩnh, mụ thấy đầu lâu của con thì kinh hoàng lăn đùng ra chết.
8. Chuyện Mai An Tiêm
Ngày xửa ngày xưa, lúc Hùng Vương còn trị vì, đất nước ta trải dài núi cao, sông rộng, bầu trời trong xanh, nhưng ruộng đất chưa màu mỡ như ngày nay. Vua Hùng Vương thứ mười bảy nuôi một người con nuôi tên là Mai An Tiêm, người có tài năng và trí tuệ hơn người.
Vua yêu quý Mai An Tiêm, thường xuyên ban tặng những đồ quý giá. Các quan thường cầu tài lộc từ vua đều khen ngợi hết lời, chỉ có An Tiêm nói: 'Quà là của lợi, còn nợ là của lo!' và coi thường những thứ đó. Nghe đến tai vua, vua tỏ ra tức giận, nói: 'Được rồi, ta sẽ xem xét xem nó có thể tự nuôi sống bản thân không!'.
Một sáng nọ, bất ngờ An Tiêm thấy binh lính đến giải bố cả gia đình xuống thuyền, không mang theo bất cứ thứ gì. Anh ta chỉ nói một chút và để lại một thanh kiếm cùn làm di sản. Với cơn gió, chiếc thuyền hướng ra biển mở rộng. Bãi cát trắng và những vết cây xanh dần biến mất, còn lại chỉ là biển cả xanh thẳm.
Ngày hôm sau, thuyền đến một hòn đảo nhỏ. Gia đình An Tiêm được đặt lên bờ với năm ngày lương thực và một nồi. Nàng Ba, vợ An Tiêm, bế con nhỏ nhìn theo chiếc thuyền xa dần, nước mắt rơi nhỏ như mưa. Từ nay về sau, nàng không còn được chia sẻ bắp ngô mới chín hay kể chuyện dưới ánh trăng với hàng xóm! Nàng quay về hòn đảo hoang sơ với tâm hồn sợ hãi, không biết làm thế nào để sống qua ngày.
An Tiêm dẫn gia đình tìm một hốc đá tạm ổn. Sau đó, anh ta dùng kiếm đi thám hiểm. Đảo hoang thực sự, chỉ có một số cỏ và vài loài chim biển. Sau một thời gian tìm kiếm, họ mới tìm thấy một số loại quả và rau dại để ăn. Từ đó, An Tiêm trồng rau và săn tìm thức ăn, trong khi nàng Ba ra bờ biển lấy ngao, sò. Đứa con lớn của họ học cách bắt chim. Mặc dù không bắt được nhiều, nhưng cuộc sống vẫn tiếp tục.
Một ngày, khi An Tiêm đang đi săn, một chú chim bỏ lại một miếng thức ăn. Anh ta thử nếm và phát hiện đó là một mảnh dưa nhỏ. Anh ta nghĩ rằng nếu chim ăn được thì con người cũng ăn được. Anh ta ăn một miếng và cất lại hạt. Cảm giác ngon miệng và giúp giảm cảm giác đói, An Tiêm vui mừng và quyết định trồng dưa.
Sau một thời gian, những hạt đã mọc lên và trở thành một khu vườn. Nàng Ba giúp chồng chăm sóc những cây dưa mới. Cả gia đình háo hức đón chờ bông hoa đầu tiên nở, sau đó là quả, từ nhỏ dần lớn. An Tiêm không biết khi nào nên hái. Mỗi lần hái dưa, anh ta thả một số xuống biển. Những quả dưa trôi dạt đi không một dấu vết. Mặc cho thời gian trôi qua, An Tiêm vẫn tin rằng một ngày nào đó họ sẽ có cuộc sống tốt hơn.
Một ngày, một thuyền đến và hỏi về người trồng giống dưa quý để đổi lấy thực phẩm. An Tiêm đã đổi được thức ăn và xây được một ngôi nhà nhỏ. Từ đó, An Tiêm và gia đình chia sẻ giống dưa và kiến thức trồng trọt cho bà con hàng xóm. Đó chính là nguồn gốc của giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay.
9. Sơn Tinh Thủy Tinh
Hùng Vương thứ mười tám có Mỵ Nương, người con gái vô cùng xinh đẹp. Vua Hùng Vương yêu quý nàng hết mực. Vua quyết định tìm chồng cho Mỵ Nương, nhưng quá trình này không dễ dàng chút nào.
Một hôm, hai chàng trai đến cầu hôn. Một người từ vùng núi Ba Vì, tên là Sơn Tinh, với vẻ ngoại hình tuấn tú và tài năng phi thường. Chỉ cần ngón tay chỉ về phía đông, đồng lúa xanh mọc dày, chỉ về phía tây, núi non hiện hình. Chàng kia từ biển Đông, sở hữu sức mạnh kỳ diệu: gọi gió, hò ma – người được biết đến là Thủy Tinh.
Chúa Hùng Vương phân vân không biết lựa chọn ai làm rể cho Mỵ Nương. Sau nhiều cân nhắc, vua đưa ra một thách thức: ai đến trước với lễ vật bao gồm cơm nếp, bánh chưng, voi, gà và ngựa, sẽ được kết hôn với Mỵ Nương.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh đã đến trước và nhận được sự cho phép của vua để đưa Mỵ Nương về núi. Thủy Tinh đến muộn và tức giận khi không thể cưới được Mỵ Nương. Ngựa gió, mưa bão, Thủy Tinh hùng mạnh tấn công Sơn Tinh. Nhưng Sơn Tinh không chùn bước, sử dụng phép màu biến đồi núi, chặn đứng lũ nước dồn dập.
Trận chiến kéo dài hàng tháng, nước lũ dâng cao, nhưng Sơn Tinh vẫn làm đồi núi nở rộ. Thủy Tinh không thể kiểm soát, buộc phải rút quân về biển. Kể từ đó, hận thù giữa hai người ngày càng sâu sắc, mỗi khi Thủy Tinh tức giận, mưa bão lại kéo đến, nhưng mỗi lần đều thất bại trước Sơn Tinh.
10. Bí mật của bánh chưng và bánh dày
Thuở xưa, đời Hùng Vương thứ Sáu, sau khi chiến thắng giặc Ân, vua quyết định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua gọi tất cả hoàng tử về và đưa ra thách thức: 'Ai mang đến mâm cỗ ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho người đó'.
Các hoàng tử cạnh tranh tìm đồ ngon, hùng vĩ để làm lễ vật. Trong số họ, Tiết Liêu, con thứ 18 của vua, người hiền lành và tốt bụng, đau lòng vì không biết làm thế nào để thắng.
Một đêm, Tiết Liêu mơ thấy một thần linh chỉ dẫn cách làm bánh Chưng và bánh Dày từ gạo nếp, để tượng trưng cho hình hài của Trời và Đất cùng với tình thương cha mẹ. Hạnh phúc thức dậy, Tiết Liêu tự tin thực hiện lời mộng của mình.
Ngày hẹn đến, các hoàng tử đưa lên mâm những món ngon từ khắp nơi. Nhưng Tiết Liêu chỉ mang theo Bánh Dày và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương tò mò hỏi, Tiết Liêu giải thích nguồn cảm hứng từ giấc mơ và ý nghĩa của bánh. Vua nếm thử và rất hài lòng, đồng ý truyền ngôi vua cho Tiết Liêu.
Từ đó, mỗi Tết Nguyên Đán, người dân truyền thống làm Bánh Chưng và Bánh Dày để tưởng nhớ Tổ tiên và tôn vinh sự hiếu thảo, tình thương gia đình.