Tưởng tượng một thế giới khi đàn ông bất ngờ biến mất, cảnh viễn cảnh như thế nào...
Một buổi chiều tháng Tám, Jane Pearson cùng chồng và cậu con trai 5 tuổi của mình thư giãn trong kỳ nghỉ cắm trại ở California. Làm xong lều trước hoàng hôn, Jane quyết định nghỉ một lúc.
Nhưng khi tỉnh dậy trên chiếc võng ngoài túp lều, Jane hoảng sợ khi phát hiện chồng và con trai đã biến mất. Nỗi lo lắng bùng nổ khi cô nhận ra rằng tất cả nam giới trên Trái Đất đều đã mất tích, từ bào thai trong bụng đến những người chuyển giới.
Ban đầu, Jane nghĩ họ có thể đang khám phá khu rừng, nhưng khi không thấy họ quay lại, cô bắt đầu tìm kiếm họ vô vọng. Cuối cùng, cô quyết định đi xuống núi để tìm sự giúp đỡ.
Nhưng khi quay lại xã hội, Jane nhận ra một sự thật đáng sợ: Tất cả nam giới trên Trái Đất đã biến mất, đồng nghĩa với việc mọi hoạt động nhân loại đều bị ảnh hưởng sâu sắc.
Cảm giác trong tâm hồn của Jane tràn ngập sự yên bình khi cô nhìn ra khung cửa sổ và thấy ánh sáng mặt trời chiếu sáng bên ngoài.
Cuốn tiểu thuyết mới của Sandra Newman, The Men, đã mở ra một thế giới mới mẻ và đầy bí ẩn, khiến người đọc không thể rời mắt khỏi trang sách.
Những người phụ nữ đã đứng lên và chấp nhận thách thức của cuộc sống, từ việc sửa chữa điện đến quản lý doanh nghiệp, họ không ngần ngại đối mặt với bất kỳ khó khăn nào.
Nỗi đau mất mát và sự mất mát vẫn luôn hiện diện, nhưng những người phụ nữ đã học cách vượt qua và tiếp tục sống mạnh mẽ hơn.
'Trong một khoảnh khắc, tôi cảm thấy như mình đang bay trên những đám mây, một thế giới hoàn toàn không còn bóng dáng của đàn ông, chỉ có sự an lành và hạnh phúc' - Jane suy tư.
Từ nay về sau, những người phụ nữ không còn phải sống trong sợ hãi và lo lắng. Họ tự do khám phá và thể hiện bản thân mình mà không gặp bất kỳ sự cản trở nào từ phía nam giới.
Một thế giới không còn sự hiện diện của nam giới sẽ mang lại sự hài hòa và phồn thịnh. Phụ nữ có thể phát triển công nghệ sinh sản mới, cho phép họ tự mình tạo ra những đứa con.
Sự biến mất của tất cả nam giới không đồng nghĩa với sự kết thúc của loài người. Nhưng liệu thế giới đó có thực sự tốt đẹp như Jane đã tưởng tượng hay không?
Một thế giới chỉ có một giới tính và sinh sản nhân tạo là hoàn toàn khả quan trong lý thuyết
Mùa hè năm 1962, tại thị trấn Hillston, Australia, nhà di truyền học và sinh học tiến hóa người Anh, Michael White, đang cắm trại cùng con trai nhỏ của mình.
Con trai của ông, Nichonas, bắt được một đàn châu chấu. Ban đầu, ông không để ý nhiều, nhưng khi Nichonas hỏi 'Châu chấu này là đực hay cái vậy, ba?', ông nhận ra chúng đều là châu chấu cái.
Ông đi ra khỏi lều và thực hiện một cuộc khảo sát nhỏ, phát hiện ra rằng toàn bộ cánh đồng ở Hillston chỉ có châu chấu cái. Chúng thuộc loài lai giữa châu chấu Warramaba whitei và Warramaba flavolineata, đã tồn tại ít nhất 250.000 năm qua.
Châu chấu W. virgo thường sống ở vùng sa mạc khô cằn phía nam Australia, ăn cây dâu tằm và cây bụi vào mùa hè. Loài này không có con đực, chỉ sinh con cái.
Trinh sản là quá trình sinh sản vô tính, trong đó con cái có thể sinh trưởng và phát triển mà không cần tinh trùng thụ tinh.
Trong trinh sản, con cái sao chép nhiễm sắc thể của mình và tạo ra con cái mà không cần tinh trùng.
Sự phân tán di truyền này đảm bảo con cái sẽ khác biệt với mẹ mình. Tuy nhiên, chúng vẫn giống nhau theo từng cặp vì không có vật liệu di truyền mới từ con trống.
Trước đây, trinh sản được xem là ngược lại với tiến hóa vì làm giảm sự đa dạng di truyền. Tuy nhiên, nó cũng là một phương thức sinh sản tự nhiên và hiệu quả.
Trinh sản không làm giảm sự đa dạng di truyền nhiều như được tưởng. Nó cũng là một cách sinh sản tự nhiên và có thể phát triển trong một môi trường không có con đực.
Sau vài thế hệ, sự đa dạng di truyền của loài trinh sản sẽ giảm, dẫn đến việc con non không đủ sức sống đến tuổi trưởng thành. Điều này dẫn đến tuyệt chủng của loài trinh sản.
Tuy nhiên, các loài trinh sản có khả năng tiến hóa để khắc phục vấn đề này.
Một nghiên cứu mới đây tại Đại học Sydney đã phát hiện ra một loài ong ở Nam Phi có khả năng đẻ trứng dị hợp di truyền, giữ lại tất cả các nhiễm sắc thể.
Điều này giúp ngăn chặn sự mất mát đa dạng di truyền qua các thế hệ tiếp theo.
Châu chấu xanh W. virgo ở Australia đã tồn tại hàng trăm nghìn năm nhờ tính đa dạng di truyền từ các phép lai giữa hai loài bố mẹ, tạo ra nhiều dòng vô tính khác nhau.
Khác với la không thể sinh sản, châu chấu W. virgo vẫn có thể trinh sản để tạo ra con cái.
Nhiều loài giun tròn, gấu nước, ong, một số loài cá, lưỡng cư và bò sát ngoài tự nhiên cũng lựa chọn hình thức sinh sản này. Một nghiên cứu mới đây tại Vườn thú San Diego đã phát hiện ra những con kền kền mái cũng đang sinh sản mà không cần đến con trống.
Nhiễm sắc thể Y của con người đang dần biến mất.
Trong tình huống mà tất cả đàn ông biến mất trên Trái Đất, có thể nhận ra một sự kiện như thế đã xảy ra giống như một cú búng tay từ Thanos, hoặc như một người phụ nữ nào đó tìm thấy cây đèn thần và ước rằng thế giới sẽ không còn đàn ông nữa.
Tuy có những phép màu, nhưng khoa học cũng có thể giải thích mọi thứ. Tuy nhiên, việc tất cả đàn ông trên Trái Đất biến mất có thể mất hàng triệu năm cho tiến hóa thực hiện.
Nghiên cứu về nhiễm sắc thể Y của con người cho thấy nó đang teo nhỏ đi.
166 triệu năm trước, sinh vật có vú đầu tiên xuất hiện với một nhiễm sắc thể Y nguyên bản, cùng kích thước với nhiễm sắc thể X, và chúng chia sẻ các gen giống nhau.
Nhiễm sắc thể Y có một lỗ hổng cơ bản. Không giống như các nhiễm sắc thể khác có hai bản sao trong mỗi tế bào, nhiễm sắc thể Y chỉ có một bản duy nhất, được truyền từ cha sang con.
Gen trên nhiễm sắc thể Y không thể tái tổ hợp, dẫn đến việc thoái hóa và teo nhỏ đi. Với tốc độ mất gen như hiện nay, khoảng 4,6 triệu năm nữa nhiễm sắc thể Y của con người sẽ hoàn toàn biến mất.
Mặc dù nhiễm sắc thể Y cần thiết cho sinh sản bình thường, nhiều gen mà nó mang không thực hiện chức năng gì trong cơ thể. Chúng có thể được thay thế bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trên cơ thể phụ nữ.
Kỹ thuật di truyền có thể thay thế chức năng gen của nhiễm sắc thể Y, cho phép phụ nữ sinh sản mà không cần đến đàn ông. Khoa học có thể lựa chọn trinh sản hoặc tái tổ hợp các nhiễm sắc thể X với nhau.
Nhiễm sắc thể Y có lỗ hổng cơ bản, chỉ có một bản sao trong mỗi tế bào. Với tốc độ mất gen như hiện nay, nó sẽ hoàn toàn biến mất sau khoảng 4,6 triệu năm nữa.
Tại Nhật Bản, nhà nghiên cứu đã thành công trong việc biến đổi tế bào gốc từ chuột cái thành tinh trùng, giúp chuột cái khác mang thai.
Nếu công nghệ này được phát triển cho con người, trẻ em có thể được sinh ra từ hai người mẹ. Hình thức sinh sản này vẫn duy trì được mô hình gia đình truyền thống và có thể mang lại lợi thế tiến hóa.
Sinh sản không phụ thuộc vào giới tính sẽ loại bỏ sự lãng phí tiến hóa khi một loài trinh sản có thể sinh ra 100% cá thể tự tạo ra con cái.
Trinh sản sẽ loại bỏ hoạt động quan hệ tình dục và chi phí giới tính gấp đôi. Động vật không cần tốn năng lượng và thời gian tìm kiếm đối tác sinh sản hay tiêu hao calo cho các hoạt động tình dục.
Trong quá trình giao phối giữa hai con vật dị tính, chúng thường phải đối mặt với nguy cơ cao hơn bị săn mồi tấn công.
Các nhà nghiên cứu không ngạc nhiên khi các loài sinh vật tiến hóa để loại bỏ giới tính và tình dục trong sinh sản. Họ chỉ tự hỏi tại sao thế giới chưa thấy nhiều loài trinh sản hơn, bao gồm con người?
Nhưng liệu một thế giới không có đàn ông có lợi hơn không?
Ý tưởng rằng một thế giới không có đàn ông sẽ mang lại hòa bình và thịnh vượng hơn được gắn liền với giả thuyết 'The Bonobo Thesis'.
Chúng ta biết rằng bonobo, những con tinh tinh lùn sống ở Congo, chia sẻ tới 99% DNA với con người và là một trong những họ hàng gần nhất còn sống của chúng ta.
Bonobo tổ chức xã hội của chúng theo mẫu hệ mẫu. Và việc cái đàn bonobo lãnh đạo nhóm giảm bạo lực, chiến tranh và xung đột hơn so với các tinh tinh khác.
Dựa trên giả thuyết Bonobo, thế giới chỉ với phụ nữ có vẻ sẽ ít chiến tranh hơn. Quân đội của hầu hết các quốc gia sẽ giảm mạnh nếu không có đàn ông (ngoại trừ Triều Tiên).
Tuy nhiên, giả thuyết Bonobo chỉ đúng nếu bản năng hiếu chiến gắn liền với gen của các con đực. Nếu bạo lực là sản phẩm của văn hóa và môi trường, việc mất đàn ông sẽ không có ý nghĩa.
Thực tế, khi quan sát bonobo, các nhà khoa học thấy chúng ít khi tấn công thành viên cùng nhóm, nhưng khi hai nhóm gặp nhau, chúng vẫn có thể chiến đấu dữ dội.
Trong tiểu thuyết The Men, Sandra Newman đã dự đoán một cảnh tượng như vậy. Phụ nữ trong thế giới của cô không phải luôn sống hòa bình như cừu con. Khi thực phẩm khan hiếm, họ cũng sẵn sàng sử dụng bạo lực và cướp bóc.
Vì vậy, không thể khẳng định phụ nữ trong thế giới của họ sẽ luôn là những người mẫu mực, không có tham vọng hoặc quyền lực để tham gia vào các cuộc chiến tranh.
Hãy nhớ rằng không chỉ có việc thay đổi chiếc ghế tổng thống từ màu đen sang màu hồng. Trong một thế giới chỉ có phụ nữ, họ phải đảm nhận toàn bộ công việc nam giới để lại.
Nếu chỉ có 4 trong số 100 lính cứu hỏa là phụ nữ, tình hình cháy rừng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Với chỉ 5,2% phi công và kỹ sư hàng không là phụ nữ, các chuyến bay sẽ ít hơn và đắt đỏ hơn.
Chỉ có 4 trong số 10 bác sĩ trong phòng mổ là phụ nữ, điều này có nghĩa là bạn có thể phải chờ đợi lâu hơn cho lịch mổ. Tuy nhiên, sẽ có nhiều y tá và điều dưỡng nhiều hơn, điều này có lợi cho giai đoạn hậu phẫu.
Tuy nhiên, rào cản lớn nhất mà thế giới phải đối mặt lại là sự thiếu vắng phụ nữ trong lực lượng nông dân. Chỉ có 1 trong 4 nông dân trên Trái Đất là phụ nữ. Điều này có thể dẫn đến tình trạng thực phẩm khan hiếm và đắt đỏ hơn.
Và điều này khiến chúng ta nhớ đến những vụ cướp bóc thực phẩm trong tiểu thuyết của Newman, khi các nhóm phụ nữ chặn đường các xe tải phân phối thực phẩm.
Tóm lại, một thế giới không có đàn ông hoàn toàn là khả năng hiển nhiên, dù đó có phải là kết quả của tiến hóa hoặc của Thanos. Trong cả hai trường hợp, phụ nữ vẫn có khả năng tồn tại và sinh sản trong một thế giới mà không có nam giới.
Họ có thể chuyển từ sinh sản kết hợp sang sinh sản đơn tính trong hàng triệu năm, hoặc sử dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản để sinh ra con cái mà không cần tinh trùng hoặc nam giới.
Tuy nhiên, không thể khẳng định rằng thế giới sẽ tốt hơn khi không có đàn ông.
Tổng kết