Con Cuông
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Con Cuông | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Bắc Trung Bộ | ||
Tỉnh | Nghệ An | ||
Huyện lỵ | thị trấn Con Cuông | ||
Trụ sở UBND | Khối 2, thị trấn Con Cuông | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 12 xã | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Lô Văn Thao | ||
Chủ tịch HĐND | Lương Đình Việt | ||
Bí thư Huyện ủy | Nguyễn Hoài An | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 1.680,2 km² | ||
Dân số (2019) | |||
Tổng cộng | 77.830 người | ||
Thành thị | 3.866 người (5%) | ||
Nông thôn | 73.964 người (95%) | ||
Mật độ | 46 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh, Đan Lai, Tày, Thái | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 422 | ||
Biển số xe | 37-C1 | ||
Website | concuong | ||
Con Cuông là một huyện miền núi thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Con Cuông nằm ở phía tây tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh 120 km về phía tây bắc và cách cửa khẩu Nậm Cắn (huyện Kỳ Sơn) cũng 120 km. Vị trí địa lý của huyện như sau:
- Phía đông nam tiếp giáp huyện Anh Sơn
- Phía đông bắc tiếp giáp huyện Quỳ Hợp và Tân Kỳ
- Phía tây bắc tiếp giáp huyện Tương Dương
- Phía tây nam giáp Lào với đường biên giới dài 61,8 km
Theo số liệu năm 2019, huyện Con Cuông có diện tích 1.680,2 km², dân số 77.830 người, với mật độ dân số đạt 46 người/km².
Là huyện vùng cao với vị trí và điều kiện thuận lợi để phát triển nông-lâm nghiệp, du lịch và thương mại. Con Cuông được UNESCO công nhận là một phần của Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An, với vườn quốc gia Pù Mát là trung tâm của khu vực này.
Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Con Cuông có nhiều sông suối nhỏ như Khe Mọi, Khe Choăng, Khe Thơi, sông Giăng, phân bố rộng rãi khắp khu vực. Hệ thực vật ở đây đã được ghi nhận với 986 loài, trong đó 44 loài được liệt kê trong 'Sách Đỏ Việt Nam'. Rừng Con Cuông có độ che phủ trên 70%, với gần 12 triệu m³ gỗ, hơn 140 triệu cây nứa và nhiều loại gỗ quý như Pơ Mu, Sa Mu, Trầm, Lát hoa, Kiền kiền. Động vật phong phú bao gồm 64 loài có vú, 137 loài chim, 25 loài lưỡng cư, 45 loài cá, với nhiều loài quý hiếm như voọc, vượn đen má trắng, hổ, bò tót. Đặc biệt, Sao La là loài động vật quý hiếm của vùng nhiệt đới. Sự đa dạng về hệ sinh thái rừng, động thực vật cùng các danh thắng như thác Khe Kèm, thác Bổ Bố (Vải trắng) và các khu rừng lớn như Vườn quốc gia Pù Mát (67 nghìn ha) và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống (hơn 6 nghìn ha) tạo ra tiềm năng du lịch lớn cho Con Cuông, thu hút du khách trong và ngoài nước.
Ngoài các thế mạnh về rừng và động thực vật, huyện Con Cuông còn sở hữu nhiều tài nguyên khoáng sản như đá đen, đá trắng, chì, vàng, sa khoáng, và các mỏ đá lớn. Đặc biệt, mỏ đá hoa Lèn 2/9 ở thị trấn Con Cuông có trữ lượng 4,5 triệu m³, mỏ đá hoa Làng Pha tại xã Yên Khê có trữ lượng 170 triệu m³, và mỏ đá vôi đen Tân Lập có trữ lượng 1,33 triệu m³.
Lịch sử
Các nhà khảo cổ học cho biết, sau khi phân tích 1.096 mảnh tước và một số vỏ ốc thu thập ở xã Yên Khê, đã chứng minh rằng con người đã cư trú ở Con Cuông hơn 10.000 năm trước.
Có một cách giải thích dân gian thú vị về tên gọi Con Cuông. Ngày xưa, đoạn sông Cả (sông Lam) chảy qua khu vực này đã tạo thành một khu đất. Mỗi chiều, đàn công từ các làng bản thường tụ tập và nhảy múa tại đây. Do đó, vùng đất này được gọi là Con Công, và qua thời gian, tên gọi đã biến thành Con Cuông.
Ngày xưa, Con Cuông nổi tiếng với hình ảnh 'Núi chẳng cao, nước cũng chẳng sâu; Tranh sơn thủy một màu ai khéo vẽ' theo như câu thơ của Cử nhân Nguyễn Tạo, cùng với địa danh Trà Lân được nhắc đến trong 'Bình Ngô đại cáo' với hình ảnh 'trúc chẻ tro bay'. Hiện nay, Con Cuông nổi bật với diện tích 67.233 ha rừng thuộc Vườn quốc gia Pù Mát, thác Kèm và 44 loại cây quý hiếm trong 'Sách Đỏ Việt Nam', cùng với các mô hình phát triển nông nghiệp hiệu quả.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, khu vực này thuộc quận Nhật Nam.
Vào năm 1041, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai thứ tám của Lý Thái Tổ, được bổ nhiệm làm Tri châu Nghệ An. Ông đã cống hiến nhiều công sức để khai thác và mở rộng lãnh thổ Đại Việt. Sau 16 năm công tác, Lý Nhật Quang đã thành lập thêm 5 châu, 22 trại và 56 sách, trong đó có đất Cự Đồn, chính là Con Cuông ngày nay.
Theo Đại Việt Sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, vào thế kỷ XIII, Con Cuông được gọi là Nam Nhung, sau đổi tên thành Kiềm Châu và sau đó là Mật Châu.
Năm 1406, khi nhà Minh xâm lược, nước ta bị đổi thành quận Giao Chỉ và Mật Châu được đổi tên thành Trà Long rồi Trà Thanh. Nhà Lê sau đó đặt tên là phủ Trà Lân. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo đã nhắc đến địa danh này với câu thơ: Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Năm Minh Mạng thứ 2 (1822), triều Nguyễn đã đổi tên phủ Trà Lân thành phủ Tương Dương, bao gồm 4 huyện: Tương Dương, Vĩnh Hoà, Hội Nguyên và Kỳ Sơn.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, huyện Tương Dương được chia thành hai huyện mới là Tương Dương và Con Cuông. Khi mới được thành lập, huyện Con Cuông gồm 6 xã: Môn Sơn, Lục Dạ, Chính Yên, Châu Khê, Mậu Thạch, và Cam Phục.
Vào năm 1958, xã Chính Yên được chia thành hai xã: Bồng Khê và Yên Khê. Tương tự, xã Mậu Thạch cũng được chia thành hai xã: Mậu Đức và Thạch Ngàn.
Ngày 27 tháng 2 năm 1961, xã Châu Khê được chia thành ba xã: Chi Khê, Châu Khê và Lạng Khê.
Ngày 5 tháng 7 năm 1963, xã Bình Chuẩn của huyện Tương Dương được chuyển về huyện Con Cuông; đồng thời, xã Mậu Thạch được chia thành hai xã: Mậu Đức và Thạch Ngàn; xã Cam Phục cũng được chia thành hai xã: Cam Lâm và Đôn Phục. Chòm Muỗng và Bỏi thuộc xã Đôn Phục được sáp nhập vào xã Mậu Đức, còn chòm Hua Nà của xã Môn Sơn được sáp nhập vào xã Lục Dạ.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 1988, các xóm Đồng Tiến, Tân Yên, Tân Tiến, và Việt Tiến thuộc xã Bồng Khê đã được tách ra để thành lập thị trấn Con Cuông.
Sau nhiều lần điều chỉnh và phân chia, hiện tại huyện có 12 xã và 1 thị trấn.
Hành chính
Huyện Con Cuông hiện có 13 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 1 thị trấn Con Cuông (trung tâm huyện) và 12 xã: Bình Chuẩn, Bồng Khê, Cam Lâm, Châu Khê, Chi Khê, Đôn Phục, Lạng Khê, Lục Dạ, Mậu Đức, Môn Sơn, Thạch Ngàn, và Yên Khê.
Kinh tế
Nhờ vào việc khai thác rừng một cách hợp lý và hiệu quả, huyện đã triển khai trồng nhiều loại cây lâm nghiệp như bồ đề, keo tràm, vạng, giàng giàng, và trám, với diện tích đạt gần 1 nghìn ha mỗi năm.
Ngành nông nghiệp đang có những chuyển biến tích cực. Khai thác quỹ đất chưa sử dụng còn lớn, người dân tích cực khai hoang và phục hóa để mở rộng diện tích đất nông nghiệp.
Chăn nuôi gia súc và gia cầm đã được nâng cao về chất lượng và quy mô nhờ những cải tiến trong phương thức chăm sóc.
Mặc dù thương mại và dịch vụ chưa chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện, nhưng ngành này đã có sự phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới chợ đã được mở rộng, với sự hình thành của một số trung tâm thương mại và dịch vụ đầu mối tại các chợ ở thị trấn và các xã như Môn Sơn, Châu Khê, và Mậu Đức, phục vụ nhu cầu hàng hóa cho cả trong và ngoài huyện.
Ngành lâm nghiệp và dịch vụ vận tải như xe tải, xe khách đang phát triển mạnh mẽ. Từ một điểm xuất phát thấp, Con Cuông đang dần khôi phục và phát triển, tạo nên một sức sống mới tràn đầy khắp vùng núi rừng.
Sự phát triển kinh tế đã làm thay đổi rõ rệt đời sống của người dân. Cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường học và trạm y tế đang được cải thiện. Nhờ vào việc nằm trong khu quy hoạch du lịch Vườn quốc gia Pù Mát, mạng lưới giao thông huyện đã được nâng cấp nhanh chóng. Đến cuối năm 2003, toàn huyện có 253 km đường các loại, trong đó hơn 20 km đã được trải nhựa và bê tông.
Văn hóa
Vùng đất nơi đây nổi bật với những nét văn hóa đặc sắc, nơi sinh sống của bốn dân tộc: Thái, Đan Lai (Thổ), Kinh và Hoa. Dù có sự khác biệt về trình độ phát triển và cách sinh hoạt, các dân tộc vẫn duy trì sự đoàn kết và hòa hợp.
Mỗi xã trong huyện đều có trường mầm non và trung học cơ sở, tổng số lên đến 57 trường. Chất lượng giáo dục đã được cải thiện đáng kể, với tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp đạt trung bình trên 90%. Đến năm 2003, hơn 60% hộ gia đình được công nhận là gia đình văn hóa, và có 111 bản Hương ước tiến bộ. Các phong trào như xây dựng đời sống văn hóa và đấu tranh chống tệ nạn xã hội đã có nhiều tiến triển tích cực.
Hang Thẩm Hoi là một hang động karst nằm ở chân dãy núi đá vôi, cách bản Pha thuộc xã Yên Khê huyện Con Cuông khoảng 1 km về phía đông. Từ 'thẩm Hoi' trong tiếng Thái có nghĩa là 'hang Ốc.' Hang này được phát hiện vào năm 1967 và đã được khai quật bởi Viện Khảo cổ học Việt Nam vào năm 1972. Các hiện vật thu được bao gồm công cụ đá, đồ gốm và mộ táng, nằm trong trầm tích chứa vỏ trai ốc nước ngọt. Những công cụ này có đặc trưng của văn hóa Hòa Bình, thuộc giai đoạn sơ kỳ Đá mới (khoảng 15-5 Ka BP).
Giao thông
Con Cuông hiện gặp nhiều khó khăn trong việc giao thông. Toàn bộ giao thương chủ yếu dựa vào Quốc lộ 7. Do địa hình núi non hiểm trở và độ dốc lớn, việc thi công, nâng cấp và bảo trì cơ sở hạ tầng gặp nhiều thách thức. Với đặc thù là huyện vùng cao, Con Cuông có 11/13 xã và thị trấn nhận trợ cấp từ Chương trình 135.
Vận tải giao thông: Các tuyến xe khách từ thành phố Vinh lên Tương Dương, Mường Xén hay từ Con Cuông đi thành phố Hồ Chí Minh,... đã đóng góp đáng kể vào việc tạo ra công ăn việc làm và nguồn thu nhập cho người dân, đồng thời mang lại giá trị kinh tế lớn cho khu vực.
- [ Xem vị trí trên Google Maps].
Liên kết ngoài
Các đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Nghệ An | |
---|---|
Thành phố | Vinh (tỉnh lỵ) |
Thị xã (3) | Cửa Lò · Hoàng Mai · Thái Hòa |
Huyện (17) | Anh Sơn · Con Cuông · Diễn Châu · Đô Lương · Hưng Nguyên · Quỳ Châu · Kỳ Sơn · Nam Đàn · Nghi Lộc · Nghĩa Đàn · Quế Phong · Quỳ Hợp · Quỳnh Lưu · Tân Kỳ · Thanh Chương · Tương Dương · Yên Thành |
Đơn vị hành chính thuộc tỉnh Nghệ An |