1. Quyền sở hữu tài sản
Theo Điều 105 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Tài sản được phân loại thành bất động sản (như đất đai, nhà ở, công trình xây dựng liên quan đến đất đai, và các tài sản khác gắn liền với đất) và động sản (các tài sản không thuộc loại bất động sản).
Theo Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định pháp luật dân sự.
Quyền sở hữu tài sản là sự tổng hợp của ba quyền cơ bản: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản mà chủ sở hữu được phép thực hiện.
Chủ sở hữu có quyền thực hiện mọi hành động theo ý muốn đối với tài sản, nhưng phải tuân thủ pháp luật và không gây thiệt hại hay ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, cộng đồng, và quyền hợp pháp của người khác.
2. Những tài sản nào công dân không có quyền sở hữu?
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,... thuộc sở hữu toàn dân, và Nhà nước đại diện cho chủ sở hữu và thực hiện quản lý thống nhất.
Điều 2 của Hiến pháp năm 2013 quy định rằng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đồng thời, Điều 53 của Hiến pháp năm 2013 nêu rõ đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển và vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác, cùng các tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý tài chính công, đều thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước đại diện và quản lý thống nhất.
Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất, quy định các vấn đề cơ bản về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội, tổ chức quyền lực nhà nước và quyền của con người. Đây là cơ sở để xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật quốc gia. Các văn bản pháp luật khác đều phải căn cứ vào Hiến pháp. Điều 197 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tài sản thuộc sở hữu toàn dân, bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển và vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác, và tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý công thuộc sở hữu toàn dân với Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và quản lý thống nhất.
Do “nhân dân” là khái niệm rộng và không xác định được cá nhân, tổ chức hay cơ quan cụ thể, cần có một chủ thể đại diện để thực hiện quyền sở hữu, và chủ thể đó chính là Nhà nước.
+ Đất đai:
Theo Điều 4 của Luật Đất đai năm 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước đại diện chủ sở hữu và quản lý thống nhất. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho cá nhân và tổ chức theo quy định của pháp luật về đất đai.
Theo Điều 105 của Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền tài sản là loại tài sản có thể định giá bằng tiền, bao gồm quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác như quy định tại Điều 115. Cụ thể, quyền sử dụng đất được xem là quyền tài sản, cho phép người sử dụng đất có quyền sở hữu đầy đủ, bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.
Theo Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và quản lý thống nhất. Quyền sử dụng đất không phải là quyền sở hữu mà là tài sản đặc biệt, được xác định dựa trên loại đất, đối tượng và hình thức giao đất. Nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu qua việc quy hoạch, cho phép chuyển mục đích, quyết định giá đất và chính sách điều tiết giá trị tăng thêm không do người sử dụng đất tạo ra.
+ Tài nguyên nước, khoáng sản, lợi ích từ vùng biển, vùng trời và các tài nguyên thiên nhiên khác:
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm: tài nguyên đất (đất nông nghiệp và phi nông nghiệp); tài nguyên rừng (động vật, thực vật, lâm sản,...); tài nguyên nước (nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển thuộc Việt Nam); tài nguyên gió; tài nguyên biển (hải sản, muối, thực vật thủy sinh,...).
Theo Điều 16 của Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19/03/2021 về bảo đảm nghĩa vụ, các chủ thể được phép khai thác tài nguyên thiên nhiên theo luật pháp, bao gồm khoáng sản, sản phẩm rừng tự nhiên (ngoại trừ động vật), hải sản tự nhiên (cả động vật và thực vật biển), tài nguyên nước (trừ nước dùng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp), yến sào thiên nhiên và các tài nguyên khác trị giá bằng tiền để bảo đảm nghĩa vụ.
+ Tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý tài chính công:
Theo Điều 4, khoản 5 của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017, tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: tài sản bị tịch thu, tài sản vô chủ, tài sản bị bỏ quên, bị chôn giấu hoặc bị vùi lấp, tài sản không có người thừa kế, và các tài sản khác thuộc về Nhà nước theo Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngoài ra, tài sản do chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao cho Nhà nước, tài sản doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn theo cam kết, và tài sản đầu tư theo hình thức đối tác công tư cũng thuộc phạm vi này.
Do đó, công dân không có quyền sở hữu các tài sản như đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, và các tài sản do Nhà nước đầu tư và quản lý. Những tài sản này thuộc sở hữu toàn dân, với Nhà nước đại diện chủ sở hữu và quản lý thống nhất.
Tất cả các chủ thể đều có quyền sử dụng và khai thác tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Các cơ quan Nhà nước phân công cho cá nhân và pháp nhân khai thác và hưởng lợi từ tài sản. Điều 203 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân và pháp nhân có thể sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thủy sản, tài nguyên thiên nhiên, và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân với mục đích chính đáng và hiệu quả, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Ngoài ra, cá nhân và pháp nhân cũng cần tuân thủ nghĩa vụ đối với Nhà nước bằng cách thực hiện các quy định pháp luật về thuế và tham gia các hoạt động công ích, thiện nguyện vì lợi ích chung của cộng đồng.