Gieo mưa nhân tạo được coi là một giải pháp tạm thời và không thể áp dụng lâu dài do những lo ngại về hệ sinh thái và bầu khí quyển.
Gieo mưa nhân tạo được xem là phương pháp tạm thời và không thể sử dụng trong thời gian dài do những lo ngại xoay quanh hệ sinh thái và bầu khí quyển.

Các quốc gia ở Bắc bán cầu đang phải đối mặt với những đợt nắng nóng khủng khiếp, cháy rừng và hạn hán khắc nghiệt, trong đó có Trung Quốc. Nhiệt độ thường xuyên vượt quá 40 độ C (104 độ F) ở tỉnh Tứ Xuyên trong suốt 2 tháng qua, khiến mực nước sông Dương Tử, con sông dài nhất châu Á, giảm xuống mức thấp kỷ lục. Tình trạng này được Bộ Tài nguyên nước Trung Quốc đánh giá là 'ảnh hưởng xấu đến an ninh nguồn nước uống của người dân nông thôn, gia súc, cũng như sự phát triển của cây trồng'.
Để giải quyết tình trạng hạn hán kéo dài, Trung Quốc quyết định sử dụng máy bay không người lái để gieo mưa nhân tạo tại Tứ Xuyên. Quyết định này của quốc gia tỷ dân được đưa ra giữa đợt nắng nóng tồi tệ nhất trong vòng 6 thập kỷ.
Công nghệ làm mưa nhân tạo được nghiên cứu từ những năm 1940 bởi các nhà khoa học tại General Electric, sau đó được áp dụng đầu tiên trong lĩnh vực quân sự của Mỹ. Quá trình này bao gồm việc sử dụng iot bạc, iot kali hoặc đá khô được bắn vào các đám mây nhờ vào máy bay phản lực hoặc máy bay không người lái để tạo ra các tinh thể băng. Những tinh thể này giúp mây ngưng tụ và hình thành mưa.
Tuy nhiên, để tạo ra mưa nhân tạo, bầu không khí phải có sẵn đám mây để bắn các hạt iot bạc. Điều này giải thích vì sao Bắc Kinh hiện vẫn gặp khó khăn trong việc gieo mưa. Các khu vực cần nước nhất hiện tại không có đám mây đủ để thực hiện quá trình gieo mưa. Con người không thể tạo ra đám mây mưa từ không khí không đủ ẩm.

Công việc gieo mây nhân tạo đã được các nhà khoa học Mỹ thực hiện lần đầu vào những năm 1940. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đang áp dụng phương pháp này, trong đó có Trung Quốc. Trong thế vận hội mùa hè 2008, Trung Quốc đã từng sử dụng gieo mây nhân tạo để tạo mưa.
Nga cũng áp dụng phương pháp này trước các ngày lễ lớn để đảm bảo không bị ảnh hưởng bởi thời tiết. Năm 2016, họ đã chi 86 triệu rúp (1,44 triệu Euro) để gieo mây nhân tạo cho kỳ nghỉ tháng Năm.
Ngoài Trung Quốc, Mỹ cũng đã sử dụng phương pháp tạo mây nhân tạo, đặc biệt là ở các bang miền Tây bị ảnh hưởng nặng nề bởi hạn hán, như Idaho và Wyoming.
Tuy nhiên, việc sử dụng hệ thống gieo mây nhân tạo đang gặp nhiều ý kiến trái chiều về tác động tiêu cực đến môi trường. Nhiều chuyên gia cũng lo ngại liệu gieo mây có thực sự hiệu quả, vì nếu giúp một khu vực mưa thì có thể làm giảm lượng mưa ở khu vực khác.
“Nếu bạn gieo mây, thực chất bạn đang làm giảm lượng mưa ở những khu vực khác', giáo sư vật lý ứng dụng tại đại học Harvard David Keith, người chuyên nghiên cứu khoa học, công nghệ và khí hậu nói.

Ấn Độ cũng đang thực hiện thí nghiệm gieo mưa nhân tạo
'Gieo mây quy mô lớn là một thử nghiệm nguy hiểm có thể nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng tôi và dẫn đến những hậu quả không mong muốn', Jose Miguel Vinas, một nhà khí tượng học của Meteored, một công ty Tây Ban Nha chuyên cung cấp thông tin thời tiết cho biết. 'Để giảm tác động của hạn hán hoặc bão trong bối cảnh trái đất đang nóng lên như hiện nay, chúng ta nên tập trung vào các biện pháp thích ứng và giảm thiểu'.
Theo chuyên gia về nông nghiệp Kondala Murali Mohan, công nghệ tạo mưa nhân tạo có thể dẫn đến axit hóa đại dương, suy giảm tầng ôzôn và tăng mật độ khí CO2 trong khí quyển.
“Tạo mưa nhân tạo chỉ là một phương pháp tạm thời, không thể sử dụng lâu dài”, theo nhận định của Murali.
Tuy nhiên, các cơ quan khí tượng học và nhà nghiên cứu tại Trung Quốc phản bác và khẳng định rằng công nghệ tạo mưa nhân tạo không gây tác động xấu đến môi trường. Chất hóa học được sử dụng thường chỉ được phân bổ ở các khu vực lớn nên hàm lượng iot bạc rất thấp, không đủ để gây hại cho hệ sinh thái như nhiều người nghĩ.