Cổng vào làng là một công trình kiến trúc có tính chất phòng thủ, nhưng trong thời hiện đại, nó chủ yếu mang ý nghĩa tượng trưng với giá trị lịch sử và nghệ thuật.
Khái niệm
Cổng làng là một phần không thể thiếu trong kiến trúc truyền thống của người Việt. Nó đánh dấu ranh giới giữa khu vực sinh sống và khu vực canh tác. Theo phong tục, người sống ở trong cổng, còn người đã khuất được chôn cất bên ngoài cổng, phản ánh vai trò quan trọng của cổng làng trong cả đời sống thực và tâm linh.
Chức năng
Vào đầu thế kỷ 20, các làng truyền thống ở trung châu sông Hồng thường được bao quanh bởi lũy tre và được tổ chức trong một khu vực nhỏ gọn. Mỗi làng có một cổng chính, gọi là cổng trước hay cổng tiền, và một cổng nhỏ hơn gọi là cổng sau. Di chuyển vào và ra khỏi làng bị kiểm soát qua hai cổng này. Con đường chính trong làng nối từ cổng trước đến cổng sau.
Cổng làng đại diện cho ranh giới và quyền lực của cộng đồng. Một số làng còn dựng bia với hai chữ Nho 下馬 hạ mã bên cổng, yêu cầu mọi người, kể cả các nhân vật quyền quý, phải xuống ngựa để tỏ lòng tôn trọng quy tắc của làng.
Trong thời kỳ loạn lạc, cổng làng được đóng chặt và thường có tuần phu canh gác vào ban đêm.
Cổng chính và cổng phụ
Cổng trước có vai trò chào đón, trong khi cổng sau mang ý nghĩa tiễn biệt. Ví dụ, người đã khuất sẽ được đưa ra nghĩa trang qua cổng sau. Những người bị làng phạt cũng phải rời khỏi qua cổng sau.
- Cổng tiền: là cổng trước, thường hướng về phía Đông Nam, nơi đón gió lành và mặt trời mọc. Đây là cổng chính của làng, dành cho những người sống; cổng tiền đón tiếp người trở về từ đồng ruộng, khách lạ, quan chức, người thi đỗ, và quan trọng nhất là dâu mới về làng. Cổng tiền có nhiệm vụ tiếp nhận những điều tốt đẹp và phúc lộc vào làng.
- Cổng hậu: là cổng sau, thường hướng về phía Tây, nơi mặt trời lặn. Đây là cổng phụ, dành cho việc tiễn đưa người đã khuất ra nghĩa trang và loại bỏ những kẻ xấu ra khỏi làng. Những người bị phạt vạ phải rời làng qua cổng hậu. Cổng hậu có chức năng đẩy những gì không phù hợp ra khỏi cộng đồng, như ma quái, trộm cắp và bất lương.
Hình dáng cổng
Cổng làng thường có dạng cổng tam quan hay còn gọi là tam môn, với ba lối: một lối chính và hai lối phụ. Các lối phụ được sử dụng hàng ngày, trong khi lối chính chỉ mở khi có lễ nghi. Cổng trước thường được xây dựng lớn hơn, có thể là dạng vòm cuốn hoặc hình vuông. Trên trán cổng có thể khắc tên làng hoặc câu chữ liên quan, như cổng làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội, ghi bốn chữ 如見大寶 Như kiến đại bảo, thể hiện niềm tự hào của làng. Ngoài một lối đi chính, cổng có thể có thêm hai 'cổng mã' bên cạnh, là các hình khối đặc. Để cân đối, thường có thêm trụ biểu hoặc câu đối ca ngợi lịch sử làng, như cổng làng Vân ở Bắc Giang với truyền thống nấu rượu ngon.
- Vân hương mỹ tửu lừng biển Bắc
- Chiến công Như Nguyệt rạng trời Nam
Tương tự như các công trình truyền thống khác, việc chọn hướng xây cổng làng cũng phụ thuộc vào nguyên tắc phong thủy. Cổng trước lý tưởng nên quay về hướng đông, còn cổng sau hướng tây.
Vật liệu xây dựng thường là gạch hoặc đá kết hợp với vữa, có thể có mái che. Đối với những công trình cầu kỳ, mái có thể chia thành hai tầng (chồng diêm) hoặc xây gác như vọng lâu với mái cong. Nóc mái thường được trang trí bằng rồng, phượng, cá hóa long, hoặc quả bầu. Cổng làng của những nơi nghèo có thể chỉ làm bằng gỗ hoặc tre.
Một đặc điểm thường gặp gắn liền với cổng làng là cây đa, vì vậy biểu tượng của làng quê miền Bắc Việt Nam thường bao gồm cây đa, giếng nước và sân đình, là ba địa điểm chính để cộng đồng tụ họp.
Hiện trạng
Bước sang thế kỷ 20, cổng làng dần mất đi vị trí quan trọng ban đầu do sự phát triển không gian và xu hướng hội nhập. Nhiều công trình bị phá hủy, đặc biệt là ở các khu đô thị hóa nếu không được bảo tồn. Nhu cầu giao thông đã dẫn đến việc nhiều làng phá bỏ cổng để mở rộng lối đi cho xe cộ. Tuy nhiên, một số làng như Đường Lâm vẫn cố gắng bảo tồn cổng làng như một phần của di sản văn hóa để thu hút du khách.
Ngày nay, các làng quê Việt Nam không còn giữ nguyên hai cổng như xưa. Những ngôi làng hiện đại đã tháo dỡ cổng để tạo lối đi cho xe công nông và ô tô. Thay vì những cổng làng đẹp và đầy ý nghĩa, giờ đây đôi khi cổng chỉ là một barie bằng ống nước cũ hoặc một cây tre đơn giản để thu tiền lộ phí. Quan niệm về cổng làng đã chuyển từ ý nghĩa văn hóa và giáo dục sang sự thực dụng và tiện lợi.
Cổng làng trong văn học
Cổng làng cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm thi ca Việt Nam. Nhà thơ Bàng Bá Lân đã viết bài thơ 'Cổng làng' với nội dung như sau:
- Chiều chiều đón gió mát cổng làng,
- Gió nhẹ nhàng đẩy mây vàng lững lờ trôi.
- Cánh đồng xanh mướt vươn tới chân trời,
- Con đường quê quanh co đón người về thôn.
- Ánh sáng ban mai nhuộm hồng mây trắng,
- Mặt trời thức dậy, chim hót líu lo chào đón.
- Cổng làng mở rộng, nhộn nhịp tiếng bước chân,
- Nông dân lững thững vào đón ngày mới.
- Giữa trưa hè, nắng nóng làm bóng râm lặng lẽ,
- Gà mái cục cục, kiếm mồi và dẫn đàn con.
- Cổng làng nơi vài cô gái trẻ tuổi,
- Ngồi nghỉ ngơi, chờ đợi làn gió mát.
- Trong những ngày gió lạnh và mưa rả rích,
- Cổng làng lặng lẽ, ẩn mình bên con đường lầy lội.
- Khi trăng sáng, cảnh vật bừng lên vẻ huyền ảo,
- Những bóng hình thoáng hiện trên con đường mơ màng.
- Ngày xuân lúa chín thơm phức tràn đồng,
- Trong khi Đông tàn, Xuân chưa vội trở lại.
- Lễ hội xuân tại cổng làng
- Chứng kiến cảnh tấp nập của những cô gái trẻ.
- Dù ở nơi xa xôi, khi trở về cây đa đầu làng,
- Cảnh tượng mơ mộng dường như hiện ra,
- Đặc biệt khi nhìn thấy cổng làng nhô lên giữa rừng tre.
Nhạc sĩ Văn Phụng trong bài hát 'Trăng sáng vườn chè' đã miêu tả cổng làng như một địa điểm đặc biệt nơi người vợ chờ đón chồng trở về sau khi đạt thành tích tiến sĩ. Bài hát cũng nhắc đến phong tục khi một người dù có địa vị cao như quan nghè vẫn phải xuống ngựa khi tới cổng làng.
- Một quan là sáu trăm đồng
- Tiết kiệm từng tháng để chồng đi thi
- Chồng tôi cưỡi ngựa trở về vinh quy
- Có lính hộ tống dẹp đường hai bên
- Tôi ra đón tại cổng làng,
- Chồng tôi xuống ngựa, cả làng cùng xem...
- Làng
- Đường Lâm
- Làng Mai Xá
- Làng cổ Long Tuyền
- Cổng làng đó... Lưu trữ ngày 25-10-2008 tại Wayback Machine