Áp phích phim chính thức chiếu rạp | |
Đạo diễn | Steven Spielberg |
---|---|
Kịch bản |
|
Dựa trên | Jurassic Park của Michael Crichton |
Sản xuất |
|
Diễn viên |
|
Quay phim | Dean Cundey |
Dựng phim | Michael Kahn |
Âm nhạc | John Williams |
Hãng sản xuất |
|
Phát hành | Universal Pictures |
Công chiếu |
|
Thời lượng | 127 phút |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Kinh phí | 63 triệu USD |
Doanh thu | 1,046 tỉ USD |
Công viên kỷ Jura (tên gốc tiếng Anh: Jurassic Park) là một bộ phim phiêu lưu khoa học viễn tưởng của Mỹ được sản xuất năm 1993 bởi Steven Spielberg và các nhà sản xuất Kathleen Kennedy và Gerald R. Molen. Đây là bộ phim đầu tiên trong loạt phim Công viên kỷ Jura, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Michael Crichton xuất bản vào năm 1990. Crichton và David Koepp đảm nhiệm vai trò biên kịch. Phim lấy bối cảnh tại hòn đảo giả tưởng Isla Nublar nằm ở vùng ven biển Thái Bình Dương gần Costa Rica, nơi tỷ phú John Hammond và nhóm nhà di truyền học đã xây dựng một công viên hoang dã với nhiều loài khủng long được tái tạo. Khi hệ thống an ninh và năng lượng của công viên bị tắt, một nhóm khách tham quan, bao gồm cháu trai của Hammond, phải đấu tranh để sinh tồn và thoát khỏi hòn đảo nguy hiểm.
Trước khi tiểu thuyết của Crichton được xuất bản, bốn hãng phim đã tranh giành bản quyền chuyển thể. Universal Studios giúp Spielberg có được bản quyền với giá 1,5 triệu USD trước khi tiểu thuyết ra mắt vào năm 1990. Crichton cũng được trả 500.000 USD để chuyển thể tiểu thuyết thành kịch bản. Koepp viết phiên bản kịch bản cuối cùng, giảm bớt những chi tiết bạo lực và thay đổi một số yếu tố về nhân vật. Phim được quay tại California và Hawaii từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1992, với thời gian hậu kỳ kéo dài đến tháng 5 năm 1993 dưới sự giám sát của Spielberg khi ông đang làm việc trên Bản danh sách của Schindler (1993) tại Ba Lan.
Industrial Light & Magic đã tạo ra các loài khủng long bằng công nghệ CGI và đồng thời với mô hình khủng long thật của Stan Winston và nhóm thợ làm mô hình. Để tạo ra âm thanh cho phim, Spielberg đầu tư vào công ty DTS, chuyên về âm thanh vòm kỹ thuật số, để tái hiện các âm thanh của các loài động vật và tiếng gầm của khủng long. Với chiến dịch quảng bá 65 triệu USD, bao gồm hợp đồng với hơn 100 công ty, Công viên kỷ Jura đã thu về hơn 914 triệu USD trên toàn cầu trong lần ra mắt, trở thành phim có doanh thu cao nhất năm 1993 và là phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại vào thời điểm đó. Phim giữ vị trí này trong bốn năm cho tới khi Titanic (1997) ra mắt. Công viên kỷ Jura được đánh giá cao bởi giới chuyên môn về kỹ xảo hình ảnh, nhạc nền của John Williams và chỉ đạo của Spielberg. Phim đã được chiếu lại dưới định dạng 3D vào năm 2013 để kỷ niệm 20 năm phát hành, trở thành phim thứ 17 trong lịch sử đạt mốc doanh thu 1 tỷ USD.
Công viên kỷ Jura đã giành hơn 20 giải thưởng, bao gồm ba giải Oscar cho các hạng mục kỹ thuật như kỹ xảo hình ảnh và thiết kế âm thanh. Phim còn được nhớ đến như một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của công nghệ CGI và kỹ xảo mô hình cơ khí. Vào năm 2018, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đã chọn lưu trữ Công viên kỷ Jura trong Cơ quan đăng ký phim quốc gia Hoa Kỳ vì ' có ý nghĩa văn hóa, lịch sử hoặc thẩm mỹ'. Các phần tiếp theo của loạt phim bao gồm Thế giới bị mất: Công viên kỷ Jura (1997), Công viên kỷ Jura III (2001), Thế giới khủng long (2015), Thế giới khủng long: Vương quốc sụp đổ (2018) và Thế giới khủng long: Lãnh địa (2022).
Nội dung
Nhờ sự tiến bộ trong khoa học, con người có thể trích xuất DNA của khủng long từ mẫu máu được muỗi hút trong hổ phách và nhân bản chúng thành công. John Hammond đã thành lập Công viên Kỷ Jura trên đảo Isla Nublar, gần bờ biển Costa Rica, với mong muốn đưa loài khủng long đến gần với mọi người và đặc biệt là trẻ em. Sau khi một nhân viên bị khủng long tấn công, các nhà đầu tư, đại diện bởi luật sư Donald Gennaro và tiến sĩ Toán học Ian Malcolm, đã đến tham quan công viên để kiểm tra mức độ an toàn. Để làm mạnh thêm lý lẽ và thuyết phục, John Hammond mời tiến sĩ Alan Grant và tiến sĩ Ellie Sattler, những nhà nghiên cứu về động thực vật thời tiền sử. Trong đoàn tham quan còn có hai cháu nội của ông Hammond là Lex và Tim Murphy.
Buổi chiều khi công việc kết thúc, tất cả nhân viên đã lên tàu về đất liền, lúc này một cơn bão nhiệt đới đang tiến vào đảo nên chuyến tham quan vòng quanh công viên đã không diễn ra như kế hoạch: Các con khủng long không xuất hiện khi được gọi. Một con Triceratops bị ốm, do đó tiến sĩ Ellie đã rời khỏi đoàn và điều trị cho nó. Cô may mắn thoát khỏi nguy hiểm.
Dennis Nedry, kỹ sư phần mềm quản lý hệ thống an ninh của công viên, đã trộm các phôi khủng long để bán kiếm tiền. Với lý do rằng 'bộ nhớ mà Linux cấp phát cho hệ thống quá hạn chế, một số dịch vụ có thể bị tắt', Nedry đã vô hiệu hóa một phần quan trọng của hệ thống an ninh. Thực tế là các tiến trình mà gã cài đặt nhằm mục đích xấu. Hắn đã ngắt một phần hàng rào điện trong công viên để có cơ hội tẩu thoát. Vì hàng rào điện này đã bị ngừng hoạt động, con khủng long Tyrannosaurus đã thoát ra tấn công đoàn tham quan, lúc này đang bị mắc kẹt trong hai chiếc xe vì hết nhiên liệu. Nó đã giết chết Gennaro và làm cho Malcom bị thương nặng. Nedry trên đường rời đảo cũng đã bị một con khủng long Dilophosaurus giết hại. Chỉ còn tiến sĩ Grant, Lex và Tim may mắn thoát chết.
Tiến sĩ Sattler, sau khi ở lại để điều trị cho con khủng long bị ốm, đã lên xe đến trung tâm điều khiển. Cô và ông Muldoon đã đi tìm những người sống sót, nhưng chỉ tìm được Malcolm. Vì không biết mật khẩu để tái kích hoạt hệ thống an ninh, nhóm Hammond phải tắt nguồn cho toàn bộ công viên. Arnold được giao nhiệm vụ khởi động lại hệ thống điện, nhưng đã bị khủng long ăn thịt trong nhà kho. Sattler và Muldoon, trên đường đến trạm điện tìm Arnold, bị con khủng long Velociraptor tấn công; Muldoon đã thiệt mạng, nhưng Sattler đã kích hoạt thành công mạch điện và thoát khỏi nguy hiểm.
Sau một đêm ở công viên, Grant đưa Lex và Tim về trung tâm tham quan, trong khi anh đi tìm những người còn lại. Hai đứa trẻ bị những con Velociraptor tấn công nhưng đã may mắn trốn thoát, sau đó gặp lại Grant và Sattler. Nhờ khả năng sử dụng máy tính của mình, Lex đã khôi phục lại toàn bộ hệ thống phần mềm trên đảo. Bốn người lại bị lũ khủng long Velociraptor truy sát một lần nữa, nhưng may mắn trốn thoát nhờ sự xuất hiện bất ngờ của con T-Rex trong công viên. Cuối cùng, Hammond, Malcolm, Grant, Sattler, Lex và Tim lên trực thăng rời khỏi đảo.
Diễn viên
- Sam Neill vai Tiến sĩ Alan Grant
- Laura Dern vai Tiến sĩ Ellie Sattler
- Jeff Goldblum vai Tiến sĩ Ian Malcolm
- Richard Attenborough vai John Hammond
- Bob Peck vai Robert Muldoon
- Martin Ferrero vai Donald Gennaro
- B. D. Wong vai Tiến sĩ Henry Wu
- Joseph Mazzello vai Tim Murphy
- Ariana Richards vai Lex Murphy
- Samuel L. Jackson vai Ray Arnold
- Wayne Knight vai Dennis Nedry
- Jerry Molen vai Tiến sĩ Harding
- Miguel Sandoval vai Juanito Rostagno
Sản xuất
Phát triển
Ý tưởng ban đầu của nhà văn Michael Crichton xoay quanh việc hồi sinh các loài khủng long bắt nguồn từ một học sinh mới tốt nghiệp; ông tiếp tục phát triển ý tưởng này cho đến khi viết nên cuốn tiểu thuyết Jurassic Park. Trước khi tiểu thuyết được xuất bản, Steven Spielberg đã biết đến nó vào tháng 10 năm 1989 trong khi thảo luận với Crichton về một kịch bản khác, sau này trở thành phim truyền hình ER. Spielberg cho rằng điều hấp dẫn ông là việc Công viên kỷ Jura đưa loài khủng long trở lại thế giới hiện đại một cách sống động hơn bao giờ hết, vượt xa giới hạn của một bộ phim quái vật thông thường.
Trước khi tiểu thuyết được xuất bản, Crichton đã đề nghị một khoản tiền bản quyền không thương lượng là 1,5 triệu USD cùng một phần trăm doanh thu phim. Warner Bros. và Tim Burton, Columbia Pictures và Richard Donner, cùng 20th Century Fox và Joe Dante đã đề xuất mua bản quyền, nhưng Universal Studios đã chi một số tiền vào tháng 5 năm 1990 để mua bản quyền phim cho Spielberg sau khi hoàn thành Hook. Spielberg muốn làm Bản danh sách của Schindler sau khi hoàn thành Hook. Chủ tịch của Music Corporation of America (mẹ của Universal Pictures) Sid Sheinberg đã đồng ý sản xuất Công viên kỷ Jura với điều kiện Spielberg phải hoàn thành nó trước. Spielberg sau đó công bố rằng, với việc lựa chọn Công viên kỷ Jura, 'Tôi sẽ chỉ cố gắng thực hiện một phần tiếp theo thật tốt cho Hàm cá mập, nhưng là trên đất liền.'
Kịch bản
Universal đã trả cho Crichton 500.000 USD để chuyển thể cuốn tiểu thuyết của ông, và ông đã hoàn thành nó trong khi Spielberg ghi hình Hook. Crichton nói rằng do quyển sách 'khá dài', nên chỉ khoảng 10-20% nội dung được bao quát trong kịch bản, nhiều cảnh quay đã bị hủy bỏ vì lý do kinh phí và thực tế, và dù kịch bản gốc có nhiều cảnh máu me, nhưng những hình ảnh bạo lực này đã được giảm bớt. Malia Scotch Marmo đã mất 5 tháng từ tháng 10 năm 1991 để viết lại kịch bản.
Tuyển diễn viên
Ban đầu, William Hurt được đề nghị đảm nhận vai diễn Tiến sĩ Alan Grant, nhưng ông từ chối và không đọc kịch bản. Harrison Ford cũng được đề xuất cho vai diễn này. Cuối cùng, Sam Neill được chọn vào vai diễn Grant chỉ ba đến bốn tuần trước khi bắt đầu quay phim. Neill nói rằng 'mọi thứ diễn ra khá nhanh. Tôi chưa từng đọc cuốn sách, không biết gì về nó, và chỉ vài tuần sau tôi sẽ làm việc với Spielberg.' Janet Hirshenson, người chịu trách nhiệm tuyển diễn viên cho bộ phim, sau khi đọc xong cuốn sách, cho rằng Jeff Goldblum là sự lựa chọn đúng cho vai diễn Ian Malcolm. Jim Carrey cũng được thử vai cho vai diễn này. Theo Hirshenson, Carrey 'cũng rất tài năng, nhưng tôi nghĩ ngay lập tức rằng chúng ta đều yêu quý Jeff.'
Quay phim
Sau 25 tháng chuẩn bị, việc quay phim bắt đầu vào ngày 24 tháng 8 năm 1992 tại đảo Kauaʻi, Hawaii. Mặc dù bối cảnh của câu chuyện là Costa Rica, nhưng vấn đề hạ tầng và tính tiếp cận của địa điểm đã khiến Spielberg phải chọn lại một địa điểm quen thuộc từ trước. Quá trình quay kéo dài ba tuần, bao gồm nhiều cảnh ngoài trời trong khu rừng Isla Nublar. Ngày 11 tháng 9 năm 1992, Bão Iniki đi qua đảo Kauaʻi, làm đoàn làm phim mất một ngày quay. Nhiều cảnh bão trong phim được quay trong cơn bão Iniki này. Phân cảnh rượt đuổi với đàn Gallimimus được quay tại Kualoa Ranch trên đảo Oahu, và một số cảnh phong cảnh được tạo dựng kỹ thuật số từ Haiku trên đảo Maui và Niihau. Samuel L. Jackson cũng có cảnh bị giết dài, nhân vật Ray Arnold của anh bị loài raptor rượt đuổi và giết chết, nhưng các phân cảnh này đã bị hủy bỏ do Bão Iniki.
Các loài khủng long trong phim
Mặc dù tựa đề phim nhắc đến kỷ Jura, chỉ có Brachiosaurus và Dilophosaurus là hai loài sống thực sự trong thời kỳ này; các loài khủng long khác xuất hiện trong kỷ Creta. Điều này được phản ánh rõ trong phim, khi Tiến sĩ Grant miêu tả sự tàn bạo của loài Velociraptor với một cậu bé, và nói rằng 'Hãy tưởng tượng nếu bạn sống trong kỷ Creta...'
- Tyrannosaurus (khủng long bạo chúa)
- Velociraptor
- Dilophosaurus
- Brachiosaurus
- Triceratops (khủng long ba sừng)
- Gallimimus
- Parasaurolophus
- Alamosaurus
Âm nhạc
Nhạc sĩ John Williams bắt đầu soạn nhạc từ tháng 2 năm 1993 và thu âm vào tháng sau. Giống như việc ông làm với Close Encounters of the Third Kind, Spielberg cũng tham gia biên soạn âm nhạc, Williams cảm thấy cần phải sáng tác những bản nhạc có thể mang đến cảm giác 'kinh sợ' và 'mê hoặc', nhưng cũng phải mang đến niềm vui và sự thích thú mà khán giả có thể trải nghiệm khi nhìn thấy khủng long sống. Đặc biệt, trong các cảnh căng thẳng như cảnh tấn công của Tyrannosaurus, âm nhạc lại mang tính kinh hãi. Album nhạc phim đầu tiên được phát hành vào ngày 25 tháng 5 năm 1993.
Để kỷ niệm 20 năm phát hành phim, một phiên bản nhạc phim mới đã được phát hành trên các nền tảng số vào ngày 9 tháng 4 năm 2013, bao gồm bốn bản nhạc đặc biệt do Williams lựa chọn.