Khi nhắc đến cá mập tiền sử, hầu như ai cũng nghĩ ngay đến Megalodon, nhưng thực tế, trong đại dương thời tiền sử tồn tại một loài cá mập khác với mức độ đáng sợ cao hơn nhiều, đó chính là Cretoxyrhina.
Trong tưởng tượng của nhiều người, đại dương thời kỳ Đại Trung sinh dường như là thế giới của các loài bò sát biển như Ichthyosaurs, Shanglong, Mosasaur và các loài ngư long khác nổi tiếng xuất hiện để cai trị biển cả.
Bên cạnh những loài bò sát biển lớn đã được kể trên, các loài cá cũng tham gia vào cuộc chiến sinh tồn và tranh giành quyền kiểm soát biển cả, và loài cá mập lại chiếm lợi thế trong cuộc chiến này. Trong kỷ Phấn trắng muộn, sự xuất hiện của cá mập Cretoxyrhina dường như đã thông báo về sự thay đổi trong bức tranh sinh vật thống trị biển cả.
Châu Mỹ trong quá khứ được biết đến với danh xưng 'Tân Thế Giới' vì nơi này được coi là miền đất hứa của người Châu Âu khi họ đặt chân đến châu lục này. Khi những người đầu tiên đến miền Tây Hoa Kỳ, họ đã phát hiện ra một lượng lớn hóa thạch, bao gồm cả những mẫu vật hóa thạch răng lớn nổi lên từ lòng đất.

Jean Louis Rodolphe Agassiz, một nhà sinh vật học và nhà địa chất Thụy Sĩ, được biết đến với việc là một nhà nghiên cứu sáng tạo và uy tín về lịch sử tự nhiên của Trái Đất, ông cũng là người đặt tên cho loài cá mập Cretoxyrhina.
Năm 1843, nhà sinh vật học Thụy Sĩ Louis Agassiz đã nhận ra rằng những chiếc răng này thuộc về một loại cá mập lớn nào đó, nhưng vì chỉ có răng nên ông không thể mô tả hình dạng và hành vi của loài này. Sau khi Agassiz xác định những chiếc răng này là của loài cá mập, ngày càng có nhiều hóa thạch được khám phá. Tuy nhiên, mẫu hóa thạch hoàn chỉnh và nổi tiếng nhất của loài này là được một thợ săn hóa thạch tên là Charles H. Sternberg tìm thấy ở Gove County, Kansas. Mẫu hóa thạch này bao gồm hơn 250 chiếc răng và các đốt xương sống được liên kết với nhau một cách hoàn hảo đến mức khó tin, tổng chiều dài của mẫu hóa thạch này lên đến 6,1 mét.
Phát hiện của Sternberg có giá trị khảo cổ vô cùng lớn vì cá mập là loài có xương sụn nên việc bảo quản xương và đốt sống của chúng rất khó khăn, do đó việc phát hiện ra mẫu hóa thạch như thế này gần như là không thể tin được.

Mẫu hóa thạch của loài cá mập Cretoxyrhina.
Agassiz là người đầu tiên nhận ra hóa thạch răng thuộc về loài cá mập, và ông cũng là người đặt tên cho loài này là Cretoxyrhina với “creto” là viết tắt của kỷ Phấn trắng và “Oxyrhina” có nghĩa là hình dạng mũi nhọn, gai nhọn, tên đầy đủ của loài này là Cretoxyrhina mantelli.
Dựa vào mẫu hóa thạch, loài cá mập Cretoxyrhina được ước tính có thể dài tới 7 mét và nặng khoảng 3,5 tấn, lớn hơn cả loài cá mập trắng lớn nhất hiện nay. Loài cá mập Cretoxyrhina và cá mập trắng lớn hiện đại được xem là có mối quan hệ họ hàng xa nhau, mặc dù không có mối liên hệ tiến hóa trực tiếp giữa chúng, nhưng chúng thuộc cùng một bộ.

So sánh kích thước giữa cá mập Cretoxyrhina mantelli và con người.

Cá mập mako có hình dáng gần giống với loài cá mập Cretoxyrhina mantelli.
Loài cá mập tiền sử Cretoxyrhina được cho là có hình dáng tương tự loài cá mập mako hiện đại, với cơ thể dài và thon có thể giảm lực cản trong nước. Cá mập Cretoxyrhina có một cái đầu lớn với đôi mắt to đen láy, phía sau miệng là một dãy mang xếp dọc, vây lưng hình tam giác và vây ngực dài hai bên thân. Ngoài ra, chúng còn có một cái đuôi lớn hình lưỡi liềm.
Điều đáng sợ nhất về cá mập Cretoxyrhina là cái miệng khổng lồ đầy răng sắc của chúng. Trong khoang miệng, có tới 7 hàng răng sắc nhọn trên mỗi hàm. Mỗi hàng răng gồm từ 34 đến 36 chiếc, tổng cộng hơn 500 chiếc răng đang chờ đợi bất cứ con mồi nào xuất hiện.
Hàm răng của Cretoxyrhina dài và sắc nhọn, không có cấu trúc răng cưa, với chiều dài trung bình khoảng hơn 6 cm, tương đương với chiều dài ngón tay út của chúng ta. Với hàm răng đáng sợ như vậy, loài cá mập này hoàn toàn đủ sức săn những con mồi lớn như các loài bò sát biển.
Cá mập Cretoxyrhina còn được gọi là Cá mập Ginsu không chính thức, bởi hàm răng đáng sợ của chúng. Tên Ginsu được biết đến là một thương hiệu dao ở Hoa Kỳ được quảng cáo là có thể cắt gọt được mọi thứ.


Cá mập hiện đại là loài săn mồi hàng đầu dưới đại dương và đứng đầu chuỗi thức ăn dưới biển. Trong kỷ Phấn trắng muộn, đặc biệt là ở vùng biển nội địa phía tây nơi tìm thấy hóa thạch cá mập Cretoxyrhina, loài cá mập này vẫn chiếm vị trí nhất định dưới đại dương cổ đại dù có nhiều loài ăn thịt lớn và đáng sợ sinh sống.
Cretoxyrhina là loài cá mập rất hung dữ và tham ăn, chúng tấn công mọi con mồi trong tầm nhìn của chúng, từ cá, rùa, cá sấu đến cả Plesiosaurs lớn, Mosasaurus và thậm chí cả thằn lằn bay. Mẫu hóa thạch cá mập Cretoxyrhina có số hiệu KWP 247 đã cho thấy mối quan hệ với cá kiếm cổ đại - một loài cá săn mồi lớn và hung dữ có kích thước tương tự.


Mẫu hóa thạch cá mập Cretoxyrhina có số hiệu KWP 247 chỉ ra rằng cá kiếm cổ đại cũng là con mồi của loài cá mập Cretoxyrhina.
Các nhà cổ sinh vật học đã phát hiện vết cắn của cá mập Cretoxyrhina trên mẫu hóa thạch xương sống của một con Mosasaur non có số hiệu KUVP 1094. Mẫu hóa thạch khác thuộc loài Platecarpus có số hiệu FHSM VP-13283 cũng có những vết cắn tương tự của cá mập Cretoxyrhina.
Các nhà cổ sinh vật học thậm chí còn phát hiện dấu vết của cá mập Cretoxyrhina trong một mảnh hóa thạch của loài Tylosaurus. Điều này cho thấy loài cá mập 'điên cuồng' này không chỉ tấn công những con mồi cùng kích thước mà còn dám đối đầu với 'vị vua' của vùng biển nội địa phía tây thời cổ đại.

Platecarpus là một chi thương long thủy sống khoảng 84-81 triệu năm trước trong thời kỳ giữa Santonia đến sơ khai của thời kỳ kỷ Phấn trắng. Hóa thạch đã được phát hiện ở Hoa Kỳ và có thể còn mẫu vật tại Bỉ và Châu Phi.


Tylosaurus là loài thằn lằn biển ăn thịt lớn có mối quan hệ gần gũi với thằn lằn hiện đại và rắn. Tylosaurus là một loài bò sát biển vô cùng lớn, có chiều dài từ 13 đến 14 mét và cân nặng từ 20 đến 30 tấn.

Cretoxyrhina sống trong kỷ Phấn trắng muộn, từ 100 đến 80 triệu năm trước, chúng phân bố rộng khắp trên thế giới, nhưng tập trung nhiều nhất tại vùng biển nội địa phía tây. Nếu nhìn từ góc độ giải phẫu hàm răng, cá mập Cretoxyrhina có nhiều đặc điểm tương tự như cá mập mako hiện nay.
