Trapa | |
---|---|
Củ ấu luộc | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Rosids |
Bộ (ordo) | Myrtales |
Họ (familia
| Trapaceae |
Chi (genus) | Trapa |
Carl von Linné | |
Loài điển hình | |
Trapa natans L. | |
Các loài | |
|
Củ ấu, còn được gọi là ấu trụi, ấu nước, kỵ thực, lăng thực (Trung Quốc), macre, krechap (Campuchia), bao gồm một số loài thực vật thuộc chi Trapa trong họ ấu. Đây là những cây thủy sinh, có nguồn gốc từ các vùng ôn đới ở Âu-Á và Châu Phi, thường phát triển ở các vùng nước đọng không sâu quá 5 m. Ở Việt Nam, đã được ghi nhận ít nhất ba loài: ấu trụi (có hai sừng tù, trồng ở Hải Phòng), ấu gai (có hai sừng nhọn, trồng ở Thái Bình), và ấu sừng trâu (trồng ở Phú Thọ).
Mặc dù được gọi là 'củ', thực chất đây là 'quả' vì nó phát triển dưới nước và khi trưởng thành thì rụng và chôn vùi trong bùn, nên được gọi là 'củ'.
Hình dáng
Là một loại cây sống dưới nước với thân ngắn và có lông.
Lá cây ấu có hai loại. Lá chìm có phiến lá nhỏ và xẻ lông chim rất mảnh, chỉ thấy các đường gân rõ rệt. Lá nổi có cuống phao, hình quả trám, mép trên có răng cưa, dài 4–5 cm, rộng 6–7 cm, với cuống dài từ 6–15 cm, và có phao ở giữa. Mặt trên lá nhẵn, màu lục thẫm, trong khi mặt dưới màu hung đỏ và có lông tơ. Cuống lá xốp, phình ra như phao giúp cây nổi trên mặt nước.
Hoa ấu là hoa đơn, màu trắng, mọc đơn lẻ hoặc ở nách lá; gồm 4 lá dài, 4 cánh hoa, 4 nhị và bầu có hai ô, mỗi ô chứa một noãn.
Quả ấu, thường gọi là 'củ', có hai sừng do sự phát triển của các lá, cao 35 mm, rộng 5 cm, với sừng dài 2 cm và đầu sừng hình mũi tên. Bên trong quả chứa một hạt có nhiều bột trắng ăn được.
Phân bố và thu hoạch
Cây ấu được trồng phổ biến ở các ao đầm trên toàn quốc, có thể trồng bằng hạt hoặc chồi. Mùa hoa ở miền Bắc thường từ tháng 5 đến tháng 6, trong khi mùa quả từ tháng 7 đến tháng 8.
Công dụng
Củ ấu chứa 49% tinh bột và 10.3% đạm, làm nguồn thực phẩm quan trọng cho cả người và gia súc. Củ ấu có thể ăn sống hoặc chế biến chín, thường được luộc hoặc làm tinh bột để trộn với mật hoặc đường làm bánh. Quả ấu sao cháy có tác dụng chữa nhức đầu, choáng váng và cảm sốt; sử dụng 3-4 quả mỗi ngày dưới dạng thuốc sắc. Vỏ quả sao còn được dùng để chữa sốt, mệt nhọc do sốt rét, loét dạ dày, loét cổ tử cung. Toàn cây được dùng để chữa rối loạn tiêu hóa ở trẻ em, giải độc rượu, và cải thiện thị lực; ngày dùng từ 10-16g dưới dạng thuốc sắc, dùng ngoài không giới hạn liều lượng.
Ấu gai thường có vị chát, trong khi ấu trụi lại có cảm giác bở. Loại ấu được ưa chuộng nhất là ấu sừng trâu.
Ẩm thực Việt Nam có nhiều món ăn từ củ ấu. Món phổ biến nhất là củ ấu luộc, thường được thưởng thức như món ăn vặt, nhưng đôi khi còn dùng thay cơm vào cuối mùa thu khi nguồn lương thực khan hiếm ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có các món như ba ba hầm củ ấu, giò heo hầm củ ấu, và thịt heo quay nấu củ ấu với hành và gừng. Cũng có một số loại chè nấu với củ ấu, hạt sen, và đường phèn.
Câu tục ngữ
Việt Nam có câu tục ngữ:
- Thương nhau củ ấu cũng tròn
- Ghét nhau đến quả bồ hòn cũng méo
hoặc
- Ghét nhau thì quả bồ hòn cũng ngọt.
Trong đồng dao Việt Nam, có nhắc đến 'củ ấu có sừng'.
Hình ảnh
Chú giải
Liên kết ngoài
- Water chestnut trên Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Trapa trên Encyclopedia of Life
- Trapa trên trang của Trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia Hoa Kỳ (NCBI).
- Trapa (TSN 27169) trên Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS).