
Cú trắng | |
---|---|
Cú trắng | |
Tình trạng bảo tồn | |
Sắp nguy cấp (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Aves |
Bộ (ordo
| Strigiformes |
Họ (familia) | Strigidae |
Chi (genus) | Bubo |
Loài (species) | B. scandiacus |
Danh pháp hai phần | |
Bubo scandiacus (Linnaeus, 1758) | |
Nơi sinh sản Không sinh sản | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cú tuyết (danh pháp hai phần: Bubo scandiacus) hay còn gọi là Cú trắng, là một loài chim thuộc họ Cú mèo. Loài này là biểu tượng của vùng Quebec.
Thông tin
Cú tuyết là một loài cú lớn với đặc điểm dễ nhận diện: mỏ và móng màu đen, mắt vàng. Loài này không có lông tai như các loài cú mèo khác. Đầu và mắt của nó tương đối nhỏ, và con mái thường lớn hơn con trống.
Cú tuyết có chiều dài từ 52 đến 71 cm, cân nặng từ 1,6 đến 3,0 kg, với sải cánh từ 125 đến 150 cm. Đây là một trong những loài cú lớn nhất. Các con đực trưởng thành có lông toàn màu trắng, trong khi lông của con cái và chim non có nhiều đốm đen. Bộ lông trắng dày giúp cú tuyết thích nghi tốt với môi trường lạnh của vùng cực Bắc.
Tập tính sống
Cú tuyết thường xuất hiện quanh vùng cực Bắc. Chúng xây tổ trên mặt đất, trên gò đất hoặc tảng đá cao. Mùa sinh sản kéo dài từ tháng năm đến tháng sáu, và mỗi lần đẻ trứng có thể từ 3 đến 11 quả, tùy vào nguồn thức ăn. Trứng nở sau khoảng năm tuần và cả cha mẹ cùng chăm sóc và bảo vệ con non.
Thực phẩm
Chim cú tuyết chủ yếu ăn chuột lem-ming và các loài gặm nhấm nhỏ khác trong mùa sinh sản. Tuy nhiên, khi con mồi khan hiếm hoặc trong mùa gà gô làm tổ, chúng có thể chuyển sang săn gà gô nhỏ. Chúng là những kẻ săn mồi linh hoạt, thực đơn có thể thay đổi tùy theo mùa. Chúng ăn nhiều loại động vật nhỏ như chuột đồng và cũng săn những loài động vật lớn hơn như thỏ, chuột xạ, chuột mar-mot, sóc, và các loài chim như gà gô, vịt, ngỗng, chim dẽ, gà lôi, gà rừng, gà nước, chim lặn, mòng biển, chim sẻ, và thậm chí các loài cú khác.
Chúng thường săn mồi bằng cách 'ngồi chờ' và có thể bắt con mồi từ mặt đất, trên không trung hoặc bắt cá từ mặt nước bằng móng vuốt sắc nhọn. Mỗi con cú tuyết cần săn từ 7 đến 12 con chuột nhắt mỗi ngày để đáp ứng nhu cầu thực phẩm và có thể tiêu thụ hơn 1.600 con chuột lem-ming mỗi năm. Như nhiều loài chim khác, cú tuyết nuốt toàn bộ con mồi nhỏ của mình.
Những kẻ săn mồi
Dù có ít kẻ thù, nhưng các con cú tuyết trưởng thành rất cảnh giác và sẵn sàng bảo vệ mình cùng con cái trước mọi mối đe dọa. Trong mùa sinh sản, chúng thường xuyên bảo vệ tổ khỏi cáo Bắc cực, quạ, chim mòng biển, cũng như chó, chó sói xám và các loài chim săn mồi khác. Con đực giữ nhiệm vụ bảo vệ tổ gần đó trong khi con mái ấp trứng và chăm sóc con non. Cả hai cùng tấn công kẻ thù, bổ nhào xuống, gây phân tâm và dẫn dụ động vật ăn thịt ra xa khỏi tổ.
Chúng cũng phải cạnh tranh trực tiếp với chuột lem-ming và các con mồi khác với nhiều loài động vật ăn thịt, bao gồm diều hâu chân thô, đại bàng vàng, cắt hoàng gia, cắt Bắc cực, chim mòng biển, chim cướp cá, cú tai ngắn, dù dì lớn, cú đại bàng Á Âu, quạ đen, chó sói, cáo Bắc cực và chồn ermine. Mặc dù thường chiếm ưu thế hơn các chim ăn thịt khác, chúng có thể thua (đôi khi dẫn đến cái chết) trong các cuộc đối đầu với chim ăn thịt lớn như cú đại bàng, đại bàng vàng, hoặc các loài cắt hoàng gia nhỏ hơn nhưng nhanh hơn nhiều. Một số loài như ngỗng tuyết, làm tổ gần tổ cú tuyết có vẻ hưởng lợi từ sự bảo vệ của cú tuyết khi đuổi các động vật săn mồi cạnh tranh khỏi khu vực.
Hình ảnh minh họa







Thông tin thêm
- Xem dữ liệu liên quan đến Bubo scandiacus trên Wikispecies