Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu Ở Bích Câu (chữ Hán: 碧溝奇遇, Chuyện Lạ Tại Ngòi Biếc) là một tác phẩm Nôm của Việt Nam, gồm 678 câu thơ lục bát, kể về hành trình của Trần Tú Uyên gặp gỡ nàng Giáng Kiều tại Bích Câu (Bích Câu nghĩa là ngòi nước xanh, hiện thuộc Hà Nội).
Nhà Văn
Trước đây, nhiều học giả (như Dương Quảng Hàm, Thanh Lãng) cho rằng tác phẩm Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu Ở Bích Câu là của tác giả vô danh; nhưng hiện nay, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam (như Trần Văn Giáp, Nguyễn Phương Chi, Hoàng Hữu Yên, Phạm Ngọc Lan) cho rằng tác giả là Vũ Quốc Trân (? - ?), người làng Đan Loan, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; sinh sống tại phường Đại Lợi (phần phố Hàng Đào ngày nay ở Hà Nội) vào giữa thế kỷ 19. Vũ Quốc Trân đồng thời với Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, thường được gọi là 'cụ Mền Đại Lợi' vì đã đỗ nhiều khoa tú tài.
Tác phẩm
Tổng Quan Ngắn Gọn
Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu Ở Bích Câu vốn là một tiểu thuyết viết bằng chữ Hán, nằm trong tập Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748). Mặc dù có ý kiến cho rằng tác phẩm này thuộc về Đặng Trần Côn (? -1745), học giả Trần Văn Giáp đã chứng minh rằng tác giả thực sự là Đoàn Thị Điểm.
Mặc dù Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu Ở Bích Câu chỉ là bản dịch từ chữ Hán sang chữ Nôm, nhưng do thành công về mặt nghệ thuật, nó đã được phổ biến rộng rãi hơn nhiều so với bản gốc.
Theo Dương Quảng Hàm, nhiều truyện Nôm cũ của Việt Nam thường dựa vào các tích truyện từ Trung Quốc, nhưng Cuộc Gặp Gỡ Kỳ Diệu Ở Bích Câu hoàn toàn là sản phẩm của văn học Việt Nam.
Tóm Tắt Truyện
Bích Câu kỳ ngộ là một câu chuyện truyền kỳ diễn ra dưới triều đại Hồng Đức của nhà Lê (khi vua Lê Thánh Tông trị vì từ năm 1460 đến 1497).
Theo GS. Dương Quảng Hàm, câu chuyện này có thể chia thành 4 phần chính với nội dung như sau:
- Phần I. Tú Uyên Gặp Giáng Kiều Và Căn Bệnh Tương Tư:
Tú Uyên, một học sinh nghèo mồ côi cha mẹ, đến Bích Câu và chọn nơi này làm chỗ học tập vì cảnh đẹp. Vào một ngày xuân, khi đi lễ hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên nhặt được một chiếc 'lá hồng' có một câu thơ. Khi đang định họa lại thì gặp một thiếu nữ xinh đẹp trước cửa tam quan. Tú Uyên đi theo, nhưng khi đến đình Quảng Văn, thiếu nữ bỗng biến mất. Về nhà, chàng cứ mãi nhớ nhung và sinh bệnh.
- Phần II. Tú Uyên Kết Hôn Với Giáng Kiều:
Một người bạn tên Hà đến thăm và khuyên Tú Uyên nên quên đi mối tình này, nhưng chàng vẫn không thể nào nguôi ngoai. Tú Uyên đến đền Bạch Mã để bói, và đêm đó mơ thấy một vị thần dặn chàng ra đợi ở Cầu Đông vào sáng hôm sau. Ngày hôm sau, Tú Uyên đứng chờ ở cầu đến chiều, thì thấy một ông lão bán tranh có hình giống hệt thiếu nữ chàng từng gặp. Chàng mua bức tranh và treo ở thư phòng, mỗi bữa ăn đều dọn hai bát, hai đôi đũa, mời người trong tranh cùng dùng bữa.
Một ngày, Tú Uyên về muộn do bận việc ở trường và thấy một mâm cơm ngon lành đã được chuẩn bị sẵn. Chàng cảm thấy lạ nhưng vẫn ăn. Hôm sau, Tú Uyên giả vờ đi học rồi quay trở lại, ẩn nấp ở một góc. Sau đó, một thiếu nữ từ trong tranh bước ra làm việc nhà. Tú Uyên vui mừng, ra chào hỏi. Thiếu nữ tự giới thiệu là Giáng Kiều, một tiên nữ vì có duyên nợ với chàng nên đã xuống trần gian. Nói xong, nàng biến hóa thành một lâu đài lộng lẫy với đầy đủ người hầu.
- Phần III. Giáng Kiều Bỏ Đi Sau Khi Tú Uyên Say Sưa, Sau Đó Trở Lại:
Sau ba năm sống hạnh phúc, Tú Uyên sa vào rượu chè. Dù Giáng Kiều đã khuyên can nhưng vô ích, nàng quyết định rời bỏ. Khi tỉnh rượu, Tú Uyên đau khổ và hối hận vô cùng. Một ngày, trong cơn tuyệt vọng, chàng định tự tử thì Giáng Kiều hiện về và tha thứ. Hai người lại sống hạnh phúc hơn trước.
- Phần IV. Tú Uyên và Giáng Kiều Về Cõi Tiên:
Sau khi có con trai tên là Chân Nhi, vợ chồng quyết định theo lời Giáng Kiều và bắt đầu học phép tu tiên. Một ngày nọ, sau khi dặn dò con ở lại thế gian, họ cùng cưỡi hạc bay lên cõi tiên.
Nhận xét
Bích Câu kỳ ngộ kể một câu chuyện tình lãng mạn nhưng cũng phản ánh vấn đề xã hội sâu sắc. Tác phẩm thể hiện ý muốn thoát ly thực tại, phản ánh cái nhìn phê phán xã hội của tác giả trong bối cảnh chiến tranh và loạn lạc. Đồng thời, nó còn là xu hướng tìm kiếm sự an ủi qua Phật giáo và Đạo giáo.
Về mặt hình thức, Bích Câu kỳ ngộ mang đậm nét văn hóa Việt Nam qua các tên đất, tên người và âm hưởng dân tộc rõ nét. Tác phẩm sử dụng bút pháp nghệ thuật tinh tế, kết hợp tả cảnh và tả tình, và đặc biệt là ngôn ngữ trong sáng, giàu hình ảnh, và nhạc điệu nhờ vào tục ngữ, ca dao, và ảnh hưởng của ngôn ngữ Truyện Kiều.
Thông tin thêm
Bích Câu kỳ ngộ là một câu chuyện huyền bí xảy ra tại Thăng Long (Hà Nội hiện tại). Ngày nay, ở phố Cát Linh gần Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn còn tòa nhà Bích Câu đạo quán, được cho là xây dựng trên nền nhà xưa của Tú Uyên. Các di tích như sông Tô Lịch, chùa Bà Ngô (chùa Ngọc Hồ trong truyện), đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm), gò Kim Quy (Tháp Rùa), Cầu Đông (phố Hàng Đường), đình Quảng Văn (vườn hoa Cửa Nam, Hà Nội) cũng được nhắc đến trong truyện. Theo học giả Trần Văn Giáp, những địa danh này chứng tỏ tính chân thực của câu chuyện.
Chú thích
Sách tham khảo
- Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển (mục 'Bích Câu kỳ ngộ'). Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968.
- Nhiều người soạn, Từ điển bách khoa Việt Nam (Tập 1, mục từ 'Bích Câu kì ngộ'). Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1995.
- Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Quyển Thượng). Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển Trung), Quốc học tùng thư, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
- Trần Văn Giáp, Giới thiệu và xác định giá trị Bích Câu kỳ ngộ, in trong tập Nhà sử học Trần Văn Giáp. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1996.
- Hoàng Hữu Yên, Văn học thế kỷ 19, mục 'Vũ Quốc trân và Bích Câu kỳ ngộ'. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2004.
- Phạm Ngọc Lan,'Vũ Quốc Trân và Bích Câu kỳ ngộ' in trong sách Gương mặt văn học Thăng Long do GS. Nguyễn Huệ Chi làm Chủ biên. Nhà xuất bản Hà Nội, 2010.