Một phần của Những cuộc Thập tự chinh | |||||||||
Richard tim Sư tử trên đường hành quân tới Jerusalem | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thập Tự Quân:
|
Hồi giáo:
Khác:
| ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Thập tự quân:
|
Quân đội Hồi giáo
| ||||||||
Lực lượng | |||||||||
Tổng cộng 36.000–74.000 quân (ước tính): 8.000–9.000 quân Angevin (Anh, Normans, Aquitanians, Wales, v.v.) cùng với Richard I, lên đến 17.000 hoặc 50.000 theo một số nguồn bao gồm cả những người không tham chiến và thủy thủ Hơn 7.000 người Pháp với Phillip II (bao gồm 650 hiệp sĩ và 1.300 cận vệ) 12.000–15.000 người Đức với Frederick I (gồm 3.000–4.000 hiệp sĩ) 2.000 người Hungary với Géza Hai người dự phòng bổ sung cũng tham gia vào đội quân của Frederick khi du hành qua đế chế byzantine. Con số khoảng 1000 người. Từ 7.000 đến 40.000 từ phần còn lại của Châu Âu và các Quốc gia Thập Tự Chinh |
Ayyubids: 40.000 (đội quân dã chiến của Saladin, 1189 - ước tính) 5.000–20.000 (đồn trú của Acre, 1189) Seljuks: 22.000+ (chỉ quân đội dã chiến của Qutb al-Din, 1190) |
Thập tự chinh |
---|
Cuộc Thập tự chinh thứ ba (1190-1192), còn gọi là Cuộc Thập tự chinh của các nhà vua, là chiến dịch của người châu Âu nhằm tái chiếm Đất Thánh từ tay quân Hồi giáo dưới sự chỉ huy của Saladin.
Sau thất bại của cuộc Thập tự chinh lần thứ hai, vương triều Zengid của người Thổ đã kiểm soát Syria và xung đột với triều đại Fatimid ở Ai Cập, dẫn đến việc Saladin thống nhất Ai Cập và Syria để tái chiếm Jerusalem vào năm 1187. Với tinh thần tôn giáo mãnh liệt, Henry II của Anh và Philip II của Pháp đã kết thúc mâu thuẫn và khởi xướng một cuộc Thập tự chinh mới (mặc dù Henry qua đời vào năm 1189, con trai ông, Richard I Sư tử tâm, tiếp tục chỉ huy quân Anh). Hoàng đế Đế quốc La Mã thần thánh Frederick Barbarossa, dù đã cao tuổi, cũng đã tham gia, nhưng qua đời trên đường đến Đất Thánh, khiến nhiều chiến sĩ của ông thất vọng và quay trở về.
Sau những chiến thắng ban đầu, các lãnh đạo quân Thiên chúa giáo bắt đầu tranh giành chiến lợi phẩm. Richard, Leopold V của Áo và Philip đã rời Đất Thánh vào tháng 8 năm 1191. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1192, Richard và Saladin đã ký một hòa ước, theo đó Jerusalem vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của người Hồi giáo, nhưng khách hành hương Thiên chúa giáo được phép vào thăm thành phố. Richard rời Đất Thánh vào ngày 9 tháng 10. Sự thất bại trong việc tái chiếm Jerusalem đã dẫn đến việc kêu gọi tổ chức cuộc Thập tự chinh thứ tư chỉ sáu năm sau.
Context
Đối với Do Thái giáo và Ki-tô giáo, Jerusalem là thánh địa duy nhất của họ. Còn đối với người Hồi giáo, thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của Ả Rập Xê Út), với Medina là thánh địa thứ hai, nằm cách Mecca 250 dặm về phía bắc. Jerusalem đứng thứ ba trong danh sách thánh địa của Hồi giáo, vì truyền thuyết cho rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này. Cuộc chiếm Jerusalem bởi quân Thập tự của Vatican vào năm 1096 là một nỗi nhục nhã và đau đớn lớn cho thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo đã phải chịu đựng và chờ đợi gần một thế kỷ để trả thù. Cơ hội đó đến với sự xuất hiện của vị tướng vĩ đại Saladin (1137-1193), người Kurd theo giáo phái Sunni, được dân Ai Cập và Syria phong làm quốc vương. Saladin trở thành một huyền thoại trong văn học châu Âu thời bấy giờ. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem và nhiều vùng đất khác của vương quốc La-tinh vào năm 1187. Toàn bộ thế giới Hồi giáo vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được lấy lại và danh dự của Hồi giáo được phục hồi. Sự vui mừng của Hồi giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatican và Giáo hội Công giáo càng sâu đậm bấy nhiêu. Rút kinh nghiệm từ những thất bại trước, Vatican lần này đã chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, với sự hội ý của ba ông vua quyền lực châu Âu: vua Pháp Philippe II Auguste, Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh Fredrick Barbarossa và đặc biệt là vua Anh Richard I, còn gọi là 'Richard Tim Sư tử'.
Chuẩn bị
Đức Giáo hoàng mới Grêgôriô VIII tuyên bố rằng việc chiếm Jerusalem là hình phạt cho tội lỗi của các Kitô hữu trên toàn châu Âu. Đây là lời kêu gọi cho một cuộc thập tự chinh mới đến Đất Thánh. Henry II của Anh và Philippe II của Pháp đã chấm dứt chiến tranh giữa họ và thậm chí đã ban hành sắc lệnh thuế mới 'thuế thập phân Saladin' để tài trợ cho cuộc Thập tự chinh. Tại Anh, Baldwin của Exeter, Tổng Giám mục Canterbury, đã thực hiện một chuyến đi tới xứ Wales để thuyết phục 3.000 binh lính mang theo dấu hiệu chữ thập, chuyến đi này được ghi chép trong cuốn hành trình của Giraldus Cambrensis.
Chiến dịch của Barbarossa
Hoàng đế cao tuổi của Đế quốc La Mã Thần thánh, Friedrich Barbarossa, ngay lập tức đáp ứng lời kêu gọi này. Ông nhận chiếc Thánh Giá tại Mainz vào ngày 27 tháng 3 năm 1188 và là người đầu tiên lên đường đến Đất Thánh vào tháng 5 năm 1189, dẫn đầu một đội quân khoảng 100.000 người, trong đó có 20.000 hiệp sĩ. Tuy nhiên, một số sử gia cho rằng con số này có thể bị phóng đại và thực tế chỉ khoảng hơn 15.000 người, bao gồm 3.000 hiệp sĩ. Một đội quân khoảng 2.000 người do hoàng tử Géza của Hungary dẫn đầu cũng cùng đi với Barbarossa đến Đất Thánh.
Hoàng đế Đông La Mã Isaac II Angelos đã âm thầm liên kết với Saladin nhằm ngăn cản Friedrich, đổi lại sự bảo vệ cho Đế quốc của mình. Trong khi đó, quốc vương Hồi giáo Rum hứa tạo điều kiện an toàn cho Friedrich qua Anatolia, nhưng sau nhiều cuộc tấn công, Friedrich mất kiên nhẫn và vào ngày 18 tháng 5 năm 1190, quân đội Đức đã chiếm Iconium, thủ đô của Vương quốc Hồi giáo Rum. Ngày 10 tháng 6 năm 1190, con ngựa của Friedrich trượt ngã khi vượt sông Saleph, khiến ông bị văng vào đá và chết đuối. Phần lớn quân đội của ông trở về Đức để tham gia bầu cử Hoàng đế mới. Con trai ông, Friedrich xứ Schwaben, tiếp tục dẫn dắt khoảng 5.000 quân còn lại đến Antioch. Tại đây, xác của hoàng đế được đun sôi để tách phần thịt và phần xương, xương được bảo quản để tiếp tục cuộc thập tự chinh. Tuy nhiên, quân Đức tiếp tục bị giảm sút bởi dịch sốt. Friedrich Trẻ phải nhờ sự giúp đỡ của Conrad của Montferrat để đưa ông đến Acre an toàn, vượt qua Týros, nơi cha ông được chôn cất.
Cuộc khởi hành của Richard và Philippe
Henry II của Anh qua đời vào ngày 6 tháng 7 năm 1189 sau thất bại trước con trai Richard I Sư tử tâm và Philippe II Auguste. Richard kế thừa ngai vàng và ngay lập tức bắt tay vào việc quyên góp cho cuộc thập tự chinh. Vào tháng 7 năm 1190, Richard và Philippe cùng khởi hành từ Marseille, Pháp đến Sicily. Philippe II đã thuê một đội tàu của người Genova để vận chuyển quân đội của mình, gồm 650 hiệp sĩ, 1.300 ngựa chiến và 1.300 hộ sỹ, đến Đất Thánh.
William II của Sicilia qua đời năm trước và được kế nhiệm bởi Tancred, người đã giam giữ Joan của Anh, vợ của William và cũng là em gái của Richard. Richard đã can thiệp và chiếm Messina, thủ đô Sicilia, vào ngày 4 tháng 10 năm 1190, giải thoát Joan. Tuy nhiên, Richard và Philippe gặp rắc rối với cuộc hôn nhân của Richard, vì ông quyết định kết hôn với Berengaria của Navarre, phá vỡ lời hứa hôn với Alys, em gái cùng cha khác mẹ của Philippe. Ông rời Sicilia và đến Trung Đông vào ngày 30 tháng 3 năm 1191, đến Týros giữa tháng và tham gia bao vây Acre vào ngày 20 tháng 5, trong khi Richard chỉ khởi hành từ Sicilia vào ngày 10 tháng 4 năm đó.
Ngay khi rời Sicilia, hạm đội 100 tàu của Richard, chở theo 8.000 người, đã bị một cơn bão mạnh tấn công. Một số tàu mắc cạn, trong đó có tàu chở Joan và Berengaria, vị hôn thê mới của ông, cùng với lượng lớn kho báu tích lũy cho cuộc thập tự chinh. Họ nhanh chóng phát hiện ra rằng kho báu đã bị Isaac Dukas Comnenus của Síp chiếm giữ. Mặc dù các phụ nữ trẻ không bị thương tích, Richard vào Limassol ngày 6 và gặp Isaac, người này đồng ý trả lại tài sản và gửi thêm 500 binh sĩ đến Đất Thánh. Tuy nhiên, Isaac đã vi phạm lời hứa và yêu cầu Richard rời đảo. Sự kiêu ngạo của Isaac khiến Richard nổi giận và ông đã chinh phục hòn đảo trong vài ngày, sau đó tiếp tục hành trình đến Đất Thánh và tham gia bao vây Acre.
Chú thích
- Beha-ed-Din, The Life of Saladin.
- De Expugnatione Terrae Sanctae per Saladinum, dịch bởi James A. Brundage, trong The Crusades: A Documentary Survey. Marquette University Press, 1962.
- La Continuation de Guillaume de Tyr (1184–1192), biên tập bởi Margaret Ruth Morgan. L'Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, 1982.
- Ambroise, The History of the Holy War, dịch bởi Marianne Ailes. Boydell Press, 2003.
- Chronicle of the Third Crusade, dịch từ Itinerarium Peregrinorum et Gesta Regis Ricardi, dịch bởi Helen J. Nicholson. Ashgate, 1997.
- Peter W. Edbury, The Conquest of Jerusalem and the Third Crusade: Sources in Translation. Ashgate, 1996.
- Francesco Gabrieli, (biên tập) Arab Historians of the Crusades, bản dịch tiếng Anh 1969, ISBN 0-520-05224-2
- Steven Runciman, A History of the Crusades, vol. II: The Kingdom of Jerusalem, và vol. III: The Kingdom of Acre. Cambridge University Press, 1952–55.
- Cổng thông tin Thập tự chinh
- Cổng thông tin Lịch sử
- Cổng thông tin Cơ Đốc giáo