Cửu Huyền Thất Tổ (chữ Hán: 九玄七祖) là một thuật ngữ thường gặp trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, nhằm chỉ các vị tổ tiên đã khuất. Khi thực hiện nghi lễ trước bàn thờ gia tiên, người chủ lễ thường xướng câu 'Cửu Huyền Thất Tổ', để gửi gắm lời khấn đến tất cả các vị tổ tiên. Trên ban thờ gia tiên của nhiều gia đình Việt, thường có một bài vị chính giữa với bốn chữ 'Cửu Huyền Thất Tổ' được viết bằng chữ Hán hoặc chữ Quốc ngữ.
Dù hai cụm từ 'Cửu Huyền' và 'Thất Tổ' xuất hiện trong các văn bản cổ của Trung Quốc, nhưng cụm từ này không còn phổ biến trong văn hóa Trung Quốc hiện đại. Khái niệm 'Cửu Huyền Thất Tổ' có thể đã trở nên quen thuộc hơn sau khi được đưa vào Việt Nam, làm phong phú thêm sự giao thoa văn hóa giữa hai nền văn minh.
Sự hiện diện của cụm từ 'Cửu Huyền Thất Tổ'
Khoảng những năm 907-925, triều đại Tiền Thục (phía nam Trung Quốc) có một đạo sĩ tên Đỗ Quang Đình. Trong quyển kinh 'Trung Nguyên chúng tu kim lục trai từ' của ông có đoạn văn sau:
“Cửu Huyền Thất Tổ, những bậc thánh nhân, nhận phúc từ Chư Thiên, tiếp tục truyền lại sự thụ phúc ấy đến vô tận cho hậu thế.”
Điều này chứng minh rằng cụm từ 'Cửu Huyền Thất Tổ' đã được sử dụng trong Đạo giáo vào thời điểm này.
Cụm từ này xuất hiện trong tác phẩm 'Sự Lý Dung Thông'
Cụm từ này được tìm thấy trong hai câu thơ của bài thơ song thất lục bát 'Sự Lý Dung Thông' của Thiền sư Thương Hải (1728 - 1715). Bài thơ này được in trong 'Toàn Tập Minh Châu Hương Hải', do Tiến sĩ Lê Mạnh Thát biên soạn và dịch.
'Thích độ nhân miễn tam đồ khổ/Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương'
Cặp câu thơ này có thể được dịch theo hai cách khác nhau, tùy thuộc vào cách hiểu cụm từ 'Cửu Huyền'.
1. 'Phật Thích Ca giúp con người thoát khỏi ba con đường khổ ải/ Giải thoát khỏi 'cửu huyền' và 'thất tổ' để được sinh lên cõi trời.'
2. 'Phật Thích Ca giúp con người vượt qua ba con đường khổ ải/ Thoát khỏi 'cửu huyền' và 'thất tổ' để được siêu sinh.'
- 'Tam đồ khổ' trong giáo lý Phật giáo chỉ ba con đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
Các nguồn tài liệu khác
Cụm từ 'Cửu Huyền Thất Tổ' không xuất hiện trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Từ Nguyên (辭源), Từ Hải (辭海) và Khang Hy tự điển (康熙字典).
Kinh điển của Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo có nhắc đến nhưng không giải thích rõ ràng. Định nghĩa chi tiết nhất về 'Cửu Huyền Thất Tổ' được tìm thấy trong 'Cao Đài từ điển' của Nguyễn Văn Hồng, với các giải thích dựa trên Nho giáo và quy chế của Cao Đài.
Khái niệm về 'Cửu Huyền'
Việc cụm từ 'Cửu Huyền' xuất hiện có thể là cơ sở để lý giải ý nghĩa của 'Cửu Huyền Thất Tổ'. Tuy nhiên, đây vẫn là một quan điểm chưa được thống nhất rộng rãi.
Trong thời kỳ Lưỡng Tấn - Nam Bắc triều (265-589), Đạo giáo bắt đầu phát triển tại Trung Quốc. Đạo sĩ Trương Quân Phòng đã ghi chép trong quyển 44 của sách Vân Cấp Thất Thiêm như sau: 'Cửu Thiên Chân Nữ cưỡi phượng, bạch loan, du ngoạn trên cửu huyền.' (九天真女, 御飛鳳白鸞, 游於九玄之上)
Cát Hồng (283-363) đã kết hợp Phật giáo và Đạo giáo để tạo thành đạo Kim Đan, với mục đích dưỡng sinh và tu tiên. Đạo này chủ yếu phát triển ở miền Bắc Trung Quốc. Trong nhiều tác phẩm của Cát Hồng, cụm từ 'Cửu Huyền' bắt đầu xuất hiện, chẳng hạn như:
Sách Thích Kiêu [刺驕]: 'Thân phận ở nhân gian, thần linh đứng đầu cửu huyền.' (身寄波流人間,神躋九玄之表。)
Sách Nhậm Mệnh [任命]: 'Không thể vượt lên cao như vươn tay chạm trời, nhưng lại tỏa sáng trên cửu huyền.' (不能凌扶搖以高竦, 揚清耀於九玄。)
Trong quyển Âm nhạc chí tam của bộ Cựu Đường thư, từ 'Cửu Huyền' cũng xuất hiện với câu: 'Cửu huyền hiện hình, thất diệu rực rỡ.' (九玄著象, 七曜甄明。)
Theo Hán ngữ Đại Từ điển xuất bản tháng 9 năm 1986 do La Trúc Phong biên soạn, 'Cửu Huyền' chỉ đơn giản là thuật ngữ của đạo Kim Đan, có nghĩa là “chốn tiên”.
Giải thích nghĩa của từng từ
- Cửu (九)
- số 9
- tối cao, cực điểm, vô số (ví dụ: 'cửu trùng' (九重), 'cửu tuyền' (九泉), 'cửu thiên' (九天))
- Huyền (玄)
- màu đen
- huyền bí, sâu xa, mơ hồ
- Thất (七)
- số 7
- Tổ (祖)
- tổ tiên, người sáng lập, người đời trước
Giải nghĩa của 'Thất Tổ' [七祖]
Thất Tổ Miếu trong Nho giáo
Chương Vương Chế [王制] trong Kinh Lễ đề cập đến Thất Tổ Miếu như sau:
天子七廟, 三昭三穆,
與太祖之廟而七。
諸侯五廟, 二昭二穆,
與太祖之廟而五。
大夫三廟, 一昭一穆,
與太祖之廟而三。
士一廟,
庶人祭於寢。Thiên tử thất miếu, tam chiêu tam mục
dữ thái tổ chi miếu nhi thất.
Chư hầu ngũ miếu, nhị chiêu nhị mục
dữ thái tổ chi miếu nhi ngũ.
Đại phu tam miếu, nhất chiêu nhất mục
dữ thái tổ chi miếu nhi tam.
Sĩ nhất miếu,
thứ nhân tế ư tẩm.Dịch nghĩa:
Hoàng đế lập bảy miếu, ba miếu hàng chiêu, ba miếu hàng mục, và miếu Thái Tổ, tổng cộng là bảy.
Chư hầu lập năm miếu, hai miếu hàng chiêu, hai miếu hàng mục, và miếu Thái Tổ, tổng cộng là năm.
Đại phu lập ba miếu, một miếu hàng chiêu, một miếu hàng mục, và miếu Thái Tổ, tổng cộng là ba.
Sĩ lập một miếu, thứ dân cúng tế tại mộ.
Hệ thống chiêu mục [昭穆] là cách sắp xếp chính trong các miếu thờ tổ tiên. Hệ thống này bắt đầu từ thời Tây Chu (thế kỷ 11 - 770 TCN) và đạt phổ biến vào thế kỷ 8. Tùy vào thời kỳ, một tổ tiên có thể được thờ trong một miếu riêng hoặc chỉ với một bài vị.
Trong hệ thống này, Thủy Tổ được đặt ở vị trí trung tâm, bên trái là hàng chiêu, bên phải là hàng mục. Các đời tổ tiên được xếp lần lượt vào các hàng này. Nếu cha được thờ ở hàng chiêu, con sẽ ở hàng mục, và cháu sẽ trở lại hàng chiêu. Nhan Sư Cổ trong sách Hán Thư [漢書] đã ghi, 'Phụ chiêu tử mục, tôn phục vi chiêu' (父昭子穆,孫復為昭), có nghĩa là 'Cha ở hàng chiêu, con ở hàng mục, cháu lại ở hàng chiêu.' Ông cũng giải thích rằng chiêu [昭] nghĩa là 'sáng rõ', mục [穆] nghĩa là 'tráng lệ, ôn hòa'. Sau ba năm tang chế, bài vị cũ mới được thay bằng bài vị mới ở đúng hàng. Tuy nhiên, bài vị của Thái Tổ không bao giờ được di chuyển.
Cao Đài từ điển cũng đề cập đến cách bố trí theo nguyên tắc của Thất Tổ Miếu, nhưng với một số khác biệt về tên gọi.
Stt | Cách gọi | Hán Việt | Hán Tự | Đời Tổ |
---|---|---|---|---|
7 | Vị sáng lập dòng họ | Thỉ/Thủy Tổ (Khảo/Tỷ) | 始 祖 (考) | thất tổ |
6 | Ông nội của ông sơ | Viễn Tổ (Khảo) | 遠 祖 (考) | lục tổ |
5 | Cha của ông sơ | Tiên Tổ (Khảo) | 先 祖 (考) | ngũ tổ |
4 | Ông sơ/kị | Cao Tổ (Khảo) | 高 祖 (考) | tứ tổ |
3 | Ông cố/cụ | Tằng Tổ (Khảo) | 曾 祖 (考) | tam tổ |
2 | Ông nội | Nội Tổ (Khảo) | Nội 祖 (考) | nhị tổ |
1 | Cha | Phụ Thân | 父亲 | nhất tổ |
Giải thích khác về 'Thất Tổ'
Có quan điểm cho rằng Thất Tổ bao gồm từ ông nội đến ông sơ của ông sơ. Hiện tại, chưa có tài liệu nào xác minh cách hiểu này.
Stt | Cách gọi | Hán Việt | Hán Tự | Đời Tổ |
---|---|---|---|---|
7 | Ông (bà) sơ của ông sơ | Cao Tổ Tổ | 高 祖 祖 | thất tổ |
6 | Ông (bà) cố của ông sơ | Cao Cao Tổ | 高 高 祖 | lục tổ |
5 | Ông (bà) nội của ông sơ | Tằng Tằng Tổ | 曾 曾 祖 | ngũ tổ |
4 | Cha (mẹ) của ông sơ | Tổ Tổ Tổ | 祖 祖 祖 | tứ tổ |
3 | Ông (bà) sơ/kị | Cao Tổ | 高 祖 | tam tổ |
2 | Ông (bà) cố/cụ | Tằng Tổ | 曾 祖 | nhị tổ |
1 | Ông (bà) nội | Tổ | 祖 | nhất tổ |
Ý nghĩa của 'Cửu Huyền' (九玄)
Quan điểm của ông Trần Minh Tạo:
Trong bài viết Ngày Tết, vái lạy 'Cửu Huyền Thất Tổ' là vái lạy ai?, ông Trần Minh Tạo cho rằng 'Cửu Huyền' chỉ toàn bộ các vị tổ tiên đã khuất, cụ thể như sau:
- Cửu (九)
- rất nhiều, vô số, tột cùng, tối cao
- Huyền (玄)
- huyền bí, sâu thẳm, mơ hồ
Vì vậy, 'Cửu Huyền' có nghĩa là vô cùng xa, không giới hạn, cõi vĩnh hằng. Trong bối cảnh đó, 'Cửu Huyền' trở thành phần bổ nghĩa cho 'Thất Tổ', ám chỉ vô số tổ tiên đang ở trong cõi 'Cửu Huyền'.
'Tóm lại, Cửu Huyền Thất Tổ, trong giai đoạn đầu, là một thuật ngữ được Đạo giáo sáng tạo bằng cách kết hợp từ 'Thất Tổ' của Nho giáo với 'Cửu Huyền' vốn đã có từ trước trong Đạo giáo. Khi trở thành một thuật ngữ mới, nó mang nội dung ý nghĩa ban đầu theo quan điểm của Đạo giáo. Sau đó, khi Tam giáo hợp nhất, Đạo Phật đã mượn thuật ngữ này từ Đạo giáo. Trong khi đó, Nho giáo không mượn thuật ngữ này trong các nghi lễ của mình nhưng lại tiếp nhận những khái niệm quan trọng khác từ Đạo Phật và Đạo giáo. Tức là, khi Tam giáo hòa hợp, Đạo Nho như một vỏ ốc cứng nhắc được lấp đầy bởi tinh thần từ bi bác ái của Phật giáo và tinh thần tự do phóng khoáng của Đạo giáo.'
Quay trở lại với câu thơ 'Thoát Cửu Huyền Thất Tổ Siêu Phương' của Thiền sư Thương Hải, theo cách giải thích của ông Trần Minh Tạo, câu thơ có ý nghĩa là các vị 'Thất Tổ' vượt ra khỏi cõi 'Cửu Huyền' để đạt đến miền cực lạc.
Theo từ điển Nhĩ Nhã
Từ điển Nhĩ Nhã (爾雅) của Trung Quốc cổ đại, một trong các tác phẩm kinh điển của Nho giáo và nằm trong danh sách thập tam kinh, đề cập đến tổ tông thập bát đại (祖宗十八代), tức là chín đời tổ tiên từ ông nội trở lên và chín đời con cháu từ ông nội trở xuống.
Stt | Cách gọi | Hán Việt | Hán Tự |
---|---|---|---|
1 | Cha của ông sơ của ông sơ | Tỵ Tổ | 鼻 祖 |
2 | Ông sơ của ông sơ | Viễn Tổ | 遠 祖 |
3 | Ông cố của ông sơ | Thái Tổ | 太 祖 |
4 | Ông nội của ông sơ | Liệt Tổ | 烈 祖 |
5 | Cha của ông sơ | Thiên Tổ | 天 祖 |
6 | Ông sơ/kị | Cao Tổ | 高 祖 |
7 | Ông cố/cụ | Tằng Tổ | 曾 祖 |
8 | Ông nội | Tổ | 祖 |
9 | Cha | Phụ | 父 |
上按次序稱謂
即:父、祖、曾、高、天、烈、太、遠、鼻
生己者為父母,
父之父為祖,
祖父之父為曾祖,
曾祖之父為高祖,
高祖之父為天祖,
天祖之父為烈祖,
烈祖之父為太祖,
太祖之父為遠祖,
遠祖之父為鼻祖。
Thượng án thứ tự xưng vị
Tức: Phụ, Tổ, Tằng, Cao, Thiên, Liệt, Thái, Viễn, Tỵ
Sinh kỷ giả vi Phụ mẫu,
Phụ chi phụ vi Tổ,
Tổ Phụ chi phụ vi Tằng Tổ,
Tằng Tổ chi phụ vi Cao Tổ,
Cao Tổ chi phụ vi Thiên Tổ,
Thiên Tổ chi phụ vi Liệt Tổ,
Liệt Tổ chi phụ vi Thái Tổ,
Thái Tổ chi phụ vi Viễn Tổ,
Viễn Tổ chi phụ vi Tỵ Tổ,
Stt | Cách gọi | Hán Việt | Hán Tự |
---|---|---|---|
1 | Con | Tử | 子 |
2 | Cháu nội | Tôn | 孫 |
3 | Chắt | Tằng Tôn | 曾 孫 |
4 | Chút | Huyền Tôn | 玄 孫 |
5 | Con của chút | Lai Tôn | 來 孫 |
6 | Cháu của chút | Côn Tôn | 晜 孫 |
7 | Chắt của chút | Nhưng Tôn | 仍 孫 |
8 | Chút của chút | Vân Tôn | 雲 孫 |
9 | Con của chút của chút | Nhĩ Tôn | 耳 孫 |
下按次序稱謂
即:子、孫、曾、玄、來、晜、仍、雲、耳
父之子為子,
子之子為孫,
孫之子為曾孫,
曾孫之子為玄孫,
玄孫之子為來孫,
來孫之子為晜孫,
晜孫之子為仍孫,
仍孫之子為雲孫,
雲孫之子為耳孫。,
Hạ án thứ tự xưng vị
Tức: Tử, Tôn, Tằng, Huyền, Lai, Côn, Nhưng, Vân, Nhĩ
Phụ chi tử vi Tử,
Tử chi tử vi Tôn,
Tôn chi tử vi Tằng Tôn,
Tằng Tôn chi tử vi Huyền Tôn,
Huyền Tôn chi tử vi Lai Tôn,
Lai Tôn chi tử vi Côn Tôn,
Côn Tôn chi tử vi Nhưng Tôn,
Nhưng Tôn chi tử vi Vân Tôn,
Vân Tôn chi tử vi Nhĩ Tôn.
'Cửu Huyền' bao gồm cả vị Thủy Tổ
Một quan điểm khác, tương tự như của ông Trần Minh Tạo, cho rằng 'Cửu Huyền' bao gồm từ đời Thủy Tổ (người sáng lập dòng họ), các đời ở giữa (tính là một đời), và Thất Tổ (từ đời ông sơ của ông sơ đến đời ông nội); tổng cộng là 9 đời.
Stt | Cách gọi | Hán Việt | Hán Tự |
---|---|---|---|
1 | Vị sáng lập nên dòng họ | Thủy Tổ | 始 祖 |
2 | Các đời ở giữa | Cao Tằng Tổ | 高 曾 祖 |
3 | Ông sơ của ông sơ | Cao Tổ Tổ | 高 祖 祖 |
4 | Ông cố của ông sơ | Cao Cao Tổ | 高 高 祖 |
5 | Ông nội của ông sơ | Tằng Tằng Tổ | 曾 曾 祖 |
6 | Cha của ông sơ | Tổ Tổ Tổ | 祖 祖 祖 |
7 | Ông sơ/kị | Cao Tổ | 高 祖 |
8 | Ông cố/cụ | Tằng Tổ | 曾 祖 |
9 | Ông nội | Tổ | 祖 |
Theo khái niệm 'Cửu Tộc' trong Tam Tự Kinh
Nhiều tài liệu dựa vào định nghĩa 'Cửu Tộc' trong Tam Tự Kinh để giải thích về 'Cửu Huyền'. Tam Tự Kinh, một công trình quan trọng của Nho giáo, cho thấy 'Cửu Tộc' có thể được xem là một khái niệm của Nho giáo. Danh sách các đời trong 'Cửu Tộc' bao gồm từ ông sơ của mình đến cháu sơ của mình, như sau:
Hán Việt:
Cao tằng tổ, phụ nhi thân, (高曾祖,父而身)
Thân nhi tử, tử nhi tôn, (身而子,子而孫)
Tự tử tôn, chí nguyên tằng; (自子孫,至元曾;)
Nãi cửu tộc, nhân chi luân. (乃九族,人之倫)
Dịch nghĩa:
Ông sơ, cố, nội, cha đến bản thân
Bản thân đến con, con đến cháu
Từ con, cháu đến chắt, chít
Là chín dòng tộc hình thành thứ bậc của con người
Theo cách giải thích này, 'Cửu Huyền' bao gồm chín đời, lấy bản thân làm trung tâm, cộng thêm bốn đời trên và bốn đời dưới, tức là Cửu Tộc (và do đó cũng là Cửu Huyền). Tuy nhiên, trong các từ điển chưa bao giờ thấy định nghĩa 'Huyền' có nghĩa là 'tộc', 'họ' hay 'thế hệ', vì vậy có thể đây chỉ là giả thuyết hoặc mối liên hệ chưa được xác minh.
Stt | Cách gọi | Hán Việt | Hán Tự |
---|---|---|---|
1 | Ông sơ/kị | Cao Tổ | 高 祖 |
2 | Ông cố/cụ | Tằng Tổ | 曾 祖 |
3 | Ông nội | Tổ | 祖 |
4 | Cha | Phụ/Mẫu | 父/母 |
5 | Bản thân | Kỷ/Thân | 己/身 |
6 | Con trai | Tử | 子 |
7 | Cháu | Tôn | 孫 |
8 | Cháu cố, con của cháu | Tằng Tôn | 曾孫 |
9 | Cháu sơ, cháu của cháu | Huyền Tôn | 玄孫 |
Nhiều người cho rằng lý giải này không hợp lý vì chủ lễ không thể thờ cúng, khấn vái các đời con cháu của mình. Một số ý kiến theo hướng Phật giáo giải thích rằng tổ tiên đời trước có thể đầu thai thành con cháu đời sau. Việc thờ cúng các đời trước - bản thân - đời sau cũng phản ánh quan niệm về Quá Khứ - Hiện Tại - Tương Lai. Hiện tại chưa có tài liệu xác thực cho cách giải thích này.
Theo Đào Hữu Chủ
Trong bài viết 'Cửu Huyền - Cửu Tộc' của Đào Hữu Chủ, khái niệm 'Cửu Huyền' được hiểu là bao gồm từ ông sơ của ông sơ đến chính bản thân mình, tổng cộng chín đời. Giải thích này cũng được đề cập trong Cao Đài từ điển.
Theo đó, 'Cửu Huyền' bao gồm các đời sau đây:
Stt | Cách gọi | Hán Việt | Hán Tự |
---|---|---|---|
1 | Ông (bà) sơ của ông sơ | Cao Tổ Tổ | 高 祖 祖 |
2 | Ông (bà) cố của ông sơ | Cao Cao Tổ | 高 高 祖 |
3 | Ông (bà) nội của ông sơ | Tằng Tằng Tổ | 曾 曾 祖 |
4 | Cha (mẹ) của ông sơ | Tổ Tổ Tổ | 祖 祖 祖 |
5 | Ông (bà) sơ/kị | Cao Tổ | 高 祖 |
6 | Ông (bà) cố/cụ | Tằng Tổ | 曾 祖 |
7 | Ông (bà) nội | Tổ | 祖 |
8 | Cha | Phụ | 父 |
9 | Bản thân | Kỷ/Thân | 己/身 |