Dạ dày hay còn gọi là bao tử (tiếng Latin: Ventriculus) là một phần của hệ tiêu hóa (Apparatus digestorius) ở cả người và động vật. Ở người, dạ dày có hình dạng giống như túi chữ J nằm hoàn toàn trong khoang bụng (cavitas abdominis), nối với thực quản (Oesophagus) và tá tràng (Duodenum), đoạn đầu của ruột non. Dạ dày thực hiện hai chức năng chính: tiết dịch vị (chứa hydrochloric acid HCl và enzyme pepsin để phân giải protein thành các đoạn polypeptide ngắn hơn) và co bóp, trộn đều thức ăn với dịch vị (gọi là dưỡng chấp). Hoạt động của dạ dày được điều khiển bởi cơ chế thần kinh và cơ chế thể dịch. Bài viết này chủ yếu tập trung vào dạ dày của người.
Dạ dày ở các nhóm động vật
Dạ dày là cơ quan xuất hiện ở nhiều loài động vật thuộc phân ngành động vật có xương sống. Hình thái, giải phẫu và chức năng của dạ dày rất đa dạng và đặc trưng cho từng loài. Dạ dày đơn có thể thấy ở người, động vật ăn thịt (như chó, mèo, hổ...) và động vật ăn cỏ như thỏ, ngựa... Tuy nhiên, không phải tất cả các loài đều có dạ dày đơn.
Ở một số loài động vật nhai lại như trâu, bò, và dê, dạ dày của chúng được chia thành bốn phần theo thứ tự thức ăn di chuyển qua: dạ cỏ (rumen), dạ tổ ong (reticulum), dạ lá sách (omasum), và dạ múi khế (abomasum). Vì phải đối mặt với nguy hiểm từ những kẻ săn mồi, chúng cố gắng nhai kỹ càng thức ăn trước khi đưa vào dạ cỏ, nơi có hệ vi sinh vật phong phú với enzyme cellulase giúp phân hủy chất xơ. Sau đó, hỗn hợp thức ăn và vi sinh vật sẽ được chuyển đến dạ tổ ong. Khi rời khỏi khu vực ăn uống, động vật tìm đến nơi yên tĩnh để “ợ” thức ăn từ dạ tổ ong lên và nhai lại cho kỹ hơn, do đó được gọi là động vật nhai lại. Thức ăn sau khi nhai kỹ sẽ được chuyển xuống dạ lá sách để hấp thụ nước và sau đó vào dạ múi khế, nơi dạ dày thực sự tiết dịch vị như HCl và pepsin. Nguồn protein chủ yếu đến từ thực vật và vi sinh vật cộng sinh ở dạ cỏ.
Ở nhiều loài chim và gia cầm, dạ dày có thể được chia thành hai phần: dạ dày tuyến (proventriculus) và dạ dày cơ hay mề (gigeria). Thức ăn từ thực quản sẽ được chuyển đến dạ dày tuyến, nơi nó được ngấm dịch vị (HCl) trước khi xuống mề (một hệ thống cơ rất dày). Tại mề, thức ăn được trộn đều và nghiền nát nhờ sự co bóp của cơ. Một số loài chim, đặc biệt là gà, có thói quen nuốt sỏi, và sỏi này chủ yếu nằm ở dạ dày cơ, giúp nâng cao hiệu quả tiêu hóa. Hơn nữa, có những loại dạ dày trung gian, như dạ dày lợn, có cấu trúc 5 phần: thực quản (nhỏ), manh nang, thượng vị, thân vị, và hạ vị. Vùng thực quản không có tuyến, manh nang và thượng vị có tuyến tiết dịch nhầy nhưng không có pepsin và HCl, còn thân vị và hạ vị tương tự như dạ dày đơn của động vật ăn thịt.
Giải phẫu học dạ dày người
Vị trí
Dạ dày nằm ngay dưới vòm hoành bên trái, phía sau cung sườn và vùng thượng vị bên trái. Dạ dày có khả năng co giãn, dung tích từ 2.0 - 2.5 lít và không có hình dạng cố định. Khi không chứa thức ăn, dạ dày có hình dạng giống như túi chữ J.
Hình dáng bên ngoài
Dạ dày có cấu trúc bao gồm hai thành trước và sau, hai bờ cong lớn và nhỏ, và hai đầu: tâm vị (pars cardiaca) ở phía trên, môn vị (pars pylorica) ở phía dưới.
Tâm vị (pars cardiaca) có chiều rộng khoảng 3 - 4cm, nằm gần thực quản và bao gồm lỗ tâm vị (ostium cardiacum). Lỗ tâm vị kết nối thực quản với dạ dày, không có van đóng kín mà chỉ có nếp gấp. Ở người, lỗ tâm vị nằm sau sụn sườn VIII bên trái, trước đốt sống ngực X và lệch về phía trái.
Đáy vị (fundus ventriculi) là phần phình to hình chỏm cầu nằm bên trái lỗ tâm vị, được ngăn cách với thực quản bởi khuyết tâm vị (incisura cardiaca). Thân vị (corpus ventriculi) là đoạn nối giữa đáy vị, tâm vị (giới hạn trên là mặt phẳng ngang qua lỗ tâm vị từ khuyết tâm vị) và môn vị (giới hạn bởi mặt phẳng qua khuyết góc (incisura angularis) của bờ cong vị nhỏ). Thân vị có dạng ống, bao gồm hai thành và hai bờ.
Thân vị (Body of stomach) là phần lớn nằm dưới đáy vị, chiếm nhiều không gian và đóng vai trò chính trong việc co bóp thức ăn. Tại đây, dịch vị được tiết ra để hỗ trợ quá trình phân hủy thức ăn. Phân thân vị gồm:
- Thành trước dạ dày (Stomach anterior wall): Nằm ở phần trên, liên quan đến thùy gan trái, cơ hoành, và qua cơ hoành, liên quan đến phổi, màng phổi trái, màng ngoài tim và thành ngực, phần dưới liên quan đến thành bụng trước.
- Thành sau dạ dày (Postero-inferior Surface): Khu vực này liên quan đến cơ hoành và các cơ quan khác như thận, tụy, lá lách, tuyến thượng thận. Phần dưới của thành sau liên quan đến mạc treo kết tràng ngang, nối phần trung gian mạc treo kết tràng với phần lên của tá tràng.
- Bờ cong vị nhỏ (Lesser curvature): Phần này có mạc nối nhỏ nối dạ dày với tá tràng và gan, giữa hai lá của mạc nối nhỏ có vòng mạch bờ cong vị bé.
- Bờ cong vị lớn (Greater curvature): Đoạn tiếp theo có mạc nối dạ dày với lách và chứa các động mạch vị ngắn. Phần cuối cùng có mạc nối lớn bám vào, giữa hai lá của mạc nối lớn chứa bờ cong vị lớn.
Phần hang môn vị (pars pylorica) bao gồm hang môn vị (antrum pyloricum) và ống môn vị (canalis pyloricus). Hang môn vị nối với thân vị và ống môn vị, kéo dài sang phải và hơi ra phía sau. Ống môn vị thu hẹp dần như cái phễu và kết thúc bằng môn vị.
Môn vị (pylorus) có mặt ngoài được đánh dấu bởi tĩnh mạch trước môn vị (v. prepylorica) và có thể nhận biết khi sờ bằng tay. Ở trung tâm môn vị là lỗ môn vị (ostium pyloricum) nằm ở phía bên phải đốt sống thắt lưng I và kết nối với hành tá tràng.
Hình dáng bên trong
Cấu trúc dạ dày gồm 5 lớp cơ bản như sau: lớp thanh mạc, lớp dưới thanh mạc, lớp cơ (bao gồm ba lớp cơ nhỏ hơn: cơ dọc, cơ chéo và cơ vòng), lớp hạ niêm mạc và lớp niêm mạc – lớp này được phân cách bởi một lớp cơ trơn với lớp hạ niêm mạc.
Lớp tiếp theo là hệ thống mạch máu của dạ dày. Dạ dày được cung cấp máu bởi các động mạch từ thân tạng và tạo thành hai vòng cung chính, cụ thể là:
- Vòng cung nhỏ chạy dọc theo bờ cong nhỏ.
- Vòng cung lớn chạy dọc theo bờ cong lớn.
Cuối cùng, hệ thần kinh điều khiển dạ dày bao gồm dây thần kinh phế vị (dây X) và một số nhánh từ đoạn tủy, được gọi là phần đối giao cảm. Phần giao cảm chủ yếu là các sợi giao cảm từ các hạch giao cảm ngực và thắt lưng.
Lớp thanh mạc
Lớp này nằm ở ngoài cùng và thuộc về lá tạng của phúc mạc.
Tấm dưới thanh mạc
Đây là lớp tổ chức liên kết mỏng, gần như bám chặt vào lớp cơ trừ ở gần hai bờ cong vị, nơi dễ dàng tách ra hơn vì lớp này dày lên do chứa nhiều mỡ và các bó mạch thần kinh.
Lớp cơ
Lớp cơ này có chức năng chính là hỗ trợ việc nhào trộn thức ăn. Lớp cơ vòng của dạ dày còn chứa các sợi cơ chéo. Cấu trúc lớp cơ từ ngoài vào trong bao gồm ba lớp như sau:
- Cơ dọc: tiếp nối với các thớ cơ dọc của thực quản và tá tràng, dày nhất ở bờ cong vị nhỏ.
- Cơ vòng: bao quanh toàn bộ dạ dày, đặc biệt là ở môn vị.
- Cơ chéo: lớp không hoàn toàn, chạy vòng quanh đáy vị và chéo xuống phía bờ cong lớn.
Tấm dưới niêm mạc (lớp hạ niêm mạc)
Lớp này bao gồm tổ chức liên kết lỏng lẻo, dễ dàng bị xô đẩy.
Lớp niêm mạc
Đây là lớp bên trong của dạ dày, lót toàn bộ bề mặt nội tại.
Dạ dày nhận máu từ hai hệ thống mạch chính: vòng mạch ở bờ cong nhỏ và vòng mạch ở bờ cong lớn. Cả hai đều xuất phát từ động mạch thân tạng.
Chức năng của dạ dày
Cơ chế hoạt động cơ học
- Chứa đựng thức ăn
- Nhào trộn thức ăn
- Đẩy vị trấp ra khỏi dạ dày
Tiết và hóa học
Sau khi thức ăn được nghiền nát một phần bởi động tác nhai và phân hủy nhờ các enzyme trong nước bọt, nó sẽ đi qua một ống cơ trơn gọi là thực quản (nằm gần như song song và sau khí quản) và đến dạ dày. Tại đây, dạ dày thực hiện chức năng chứa đựng, nghiền nát và nhào trộn thức ăn với dịch vị. Dạ dày cũng có khả năng hấp thu một phần chất dinh dưỡng, tuy nhiên chức năng này không đáng kể. Sau khi thức ăn được xử lý tại dạ dày, nó sẽ được chuyển xuống ruột non để tiếp tục quá trình tiêu hóa, hấp thu và đào thải.
Độ pH rất thấp của dạ dày (từ 2 đến 2,5) không chỉ đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa mà còn có khả năng phòng ngừa bệnh tật. Những bệnh nhân có chứng teo niêm mạc dạ dày và không duy trì được độ pH thấp có nguy cơ cao mắc các bệnh nhiễm trùng đường ruột, vì độ pH thấp này tạo ra một rào cản hóa học hiệu quả để tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh. Tuy nhiên, nếu độ pH quá thấp, có thể dẫn đến loét dạ dày tá tràng. Vào năm 1982, hai bác sĩ người Úc đã phát hiện ra một loại xoắn khuẩn tên là Helicobacter Pylori. Vi khuẩn này có vai trò quan trọng trong việc gây ra viêm loét và ung thư dạ dày, và phát hiện này đã mở ra một kỷ nguyên mới trong điều trị. Phát hiện này đã được vinh danh với giải Nobel Y học năm 2005.
Bệnh lý dạ dày ở con người
Trào ngược dạ dày thực quản
Là tình trạng dịch vị từ dạ dày trào ngược lên thực quản một cách định kỳ hoặc thường xuyên. Những chất kích thích trong dạ dày như HCl, pepsin và dịch mật có thể gây kích ứng niêm mạc thực quản, dẫn đến các triệu chứng và biến chứng như vị axit ở miệng, ợ nóng, hơi thở hôi, đau ngực, nôn mửa, và khó thở.
Viêm dạ dày
Tình trạng viêm sưng niêm mạc dạ dày xảy ra khi lớp niêm mạc bảo vệ dạ dày bị tổn thương, dẫn đến mất cân bằng giữa axit và lớp niêm mạc. Điều này có thể gây ra đau bụng trên, khó tiêu, chán ăn, buồn nôn, nôn và ợ chua. Nếu không được điều trị, cơn đau có thể trở nên liên tục, và có thể có dấu hiệu chảy máu trong phân. Nếu chảy máu nghiêm trọng, có thể dẫn đến nôn ra máu đỏ tươi. Nếu axit không được kiểm soát, có thể gây thiếu máu nghiêm trọng hoặc thủng dạ dày, một tình trạng cần can thiệp ngoại khoa khẩn cấp.
Loét dạ dày
Loét dạ dày là tình trạng nặng hơn viêm sưng thông thường, trong đó các vết loét xuất hiện trên niêm mạc dạ dày và phần đầu của ruột non, thường do vi khuẩn HP hoặc thói quen sinh hoạt không lành mạnh. Đau thượng vị là triệu chứng phổ biến nhất. Ngoài ra, có thể xuất hiện ợ hơi, khó tiêu, đầy bụng, buồn nôn và phân có màu đen.
Liệt dạ dày
Liệt dạ dày là một vấn đề phổ biến và nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhiều người nhưng thường không được chẩn đoán kịp thời. Trong tình trạng này, nhu động dạ dày không hoạt động, dẫn đến sự tích tụ thức ăn. Nguyên nhân thường gặp là bệnh tiểu đường, nhưng cũng có thể do tắc nghẽn ở đoạn cuối dạ dày, ung thư hoặc đột quỵ. Các triệu chứng bao gồm đau bụng, đầy bụng, chướng bụng, buồn nôn, nôn sau khi ăn, chán ăn và cảm giác no sau khi ăn một lượng nhỏ thức ăn.
Bệnh Crohn
Bệnh Crohn là một dạng viêm ruột có thể ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào của hệ tiêu hóa, bao gồm cả dạ dày, mặc dù đây là hiện tượng hiếm gặp. Bệnh đặc trưng bởi loét viêm có thể làm tổn thương toàn bộ độ dày của thành dạ dày và có thể gây chảy máu, mặc dù ít khi dẫn đến thủng. Triệu chứng của bệnh bao gồm đau bụng, chán ăn, và sụt cân. Tiêu chảy cũng có thể xảy ra, vì vậy việc kiểm tra phân để phát hiện máu là cần thiết. Triệu chứng của bệnh Crohn có thể kéo dài nhiều tuần hoặc tự biến mất. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ để tránh các biến chứng nghiêm trọng hơn.
Ung thư dạ dày
Ung thư dạ dày là một căn bệnh hiếm và tỷ lệ mắc đang giảm dần trên toàn thế giới. Bệnh thường phát triển do sự thay đổi nồng độ axit và có thể biểu hiện bằng các triệu chứng mơ hồ như đầy bụng, giảm cân và đau. Nguyên nhân chính xác của ung thư dạ dày vẫn chưa rõ ràng, nhưng có liên quan đến nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori
Ngoài ra, còn có các bệnh lý khác như xuất huyết dạ dày, viêm hang vị, viêm môn vị, và viêm bờ cong nhỏ dạ dày...
Các hệ cơ quan trong cơ thể người | ||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vận động |
| |||||||||||||||||||||||
Tuần hoàn |
| |||||||||||||||||||||||
Miễn dịch |
| |||||||||||||||||||||||
Bạch huyết |
| |||||||||||||||||||||||
Hô hấp |
| |||||||||||||||||||||||
Tiêu hóa |
| |||||||||||||||||||||||
Bài tiết |
| |||||||||||||||||||||||
Vỏ bọc |
| |||||||||||||||||||||||
Thần kinh |
| |||||||||||||||||||||||
Giác quan |
| |||||||||||||||||||||||
Nội tiết |
| |||||||||||||||||||||||
Sinh dục |
|