Đá tiêu, tiêu thạch | |
---|---|
Thông tin chung | |
Thể loại | Nitrat |
Công thức hóa học | KNO3 |
Phân loại Strunz | 05.NA.10 |
Phân loại Dana | 18.1.2.1 |
Hệ tinh thể | Trực thoi |
Nhóm không gian | 2/m 2/m 2/m |
Nhận dạng | |
Màu | trắng |
Dạng thường tinh thể | Đám tinh thể hay kết tinh hình kim |
Cát khai | rất tốt trên {001}; tốt trên {010} |
Vết vỡ | giòn |
Độ cứng Mohs | 2 |
Ánh | thủy tinh |
Màu vết vạch | trắng |
Tính trong mờ | trong suốt |
Tỷ trọng riêng | 2,10 (tính toán) |
Chiết suất | nα = 1,332 nβ = 1,504 nγ = 1,504 |
Độ hòa tan | hòa tan |
Tham chiếu |
Đá tiêu còn được biết đến với các tên gọi như tiêu thạch, hỏa tiêu, nha tiêu, tiêu toan giáp, diễm tiêu, mang tiêu, Bắc đế huyền châu (các tên gọi từ tiêu thạch trở đi là từ Hán-Việt, và ba tên gọi cuối chỉ xuất hiện trong các tài liệu cổ của Trung Quốc) là một dạng khoáng vật của kali nitrat (KNO3), còn được gọi là diêm tiêu (tức là muối của đá tiêu).
Ban đầu, tên gọi tiêu thạch chỉ dùng để chỉ loại đá chứa KNO3, nhưng vào một thời kỳ, nó cũng được áp dụng cho loại khoáng vật có nguồn gốc từ Chile, gọi là Trí Lợi tiêu thạch (chứa NaNO3), với nguồn cung chính từ sa mạc Atacama, và Na Uy tiêu thạch (chứa Ca(NO3)2). Đặc biệt, mang tiêu không phải là khoáng vật chứa nitrat của kim loại kiềm, mà là khoáng vật chứa Na2SO4‧10H2O (mirabilit).
Vì các muối nitrat dễ hòa tan, nên đá tiêu thường chỉ tồn tại trong các môi trường khô cằn hoặc đất kiềm. Kali nitrat và các muối nitrat khác rất quan trọng trong việc sản xuất phân hóa học cũng như thuốc nổ đen. Hiện nay, phần lớn nhu cầu toàn cầu được đáp ứng bằng nitrat tổng hợp, mặc dù khoáng vật tự nhiên vẫn được khai thác và vẫn có giá trị thương mại đáng kể.
Miêu tả
Đá tiêu là một khoáng vật có màu trắng hoặc trong suốt, với cấu trúc tinh thể kiểu trực thoi. Nó thường xuất hiện dưới dạng các khối lớn kết tủa và các khối hình bong bóng trên các vách và trần hang động, nơi dung dịch chứa nitrat kali rỉ ra từ các khe nứt. Đôi khi, nó cũng xuất hiện dưới dạng các nhóm tinh thể hình kim lăng trụ, với các tinh thể đơn lẻ thường biểu hiện tính song tinh.
Lịch sử
Trong các ngôn ngữ phương Tây, đá tiêu được gọi bằng các tên như niter, nitre và đã được biết đến từ thời cổ đại. Tuy nhiên, đã có sự nhầm lẫn và lộn xộn với natron (hỗn hợp tự nhiên không tinh khiết của natri cacbonat/natri bicacbonat), và không phải tất cả các muối cổ đại được biết đến với các tên này đều chứa nitrat. Các tên gọi này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp νιτρων (nitron), từ tiếng Ai Cập cổ đại netjeri, có thể liên quan đến từ trong tiếng Hebrew néter, chỉ các loại tro chứa muối.
Từ néter trong tiếng Hebrew có thể được dùng để chỉ xà phòng hoặc có liên quan đến nó, như được đề cập trong Sách Jeremiah 2:22, 'Cho dù ngươi tẩy rửa mình bằng dung dịch kiềm và sử dụng nhiều xà phòng, thì tội lỗi của ngươi vẫn lộ ra trước mặt ta.' Tuy nhiên, không rõ chất nào là 'neter' trong Kinh Thánh Do Thái, với một số ý kiến cho rằng đó là natri cacbonat. Từ La tinh mới chỉ natri (natrium) xuất phát từ cùng lớp khoáng vật sa mạc gọi là natron (tiếng Pháp) hay natrón (tiếng Tây Ban Nha), qua tiếng Hy Lạp νιτρων (nitron), từ tiếng Ai Cập cổ đại netjeri, chỉ các muối cacbonat/bicacbonat của natri có trong sa mạc Ai Cập, không phải muối nitrat natri thường thấy ở các sa mạc Chile.
Cụm từ ἀφρόνιτρον được dịch là 'bọt của tiêu thạch' là mặt hàng thường xuyên được mua bán trong các tài liệu thế kỷ 4. Vì nó được nêu rõ là 'dùng để tắm rửa', nên có thể nó chỉ xà phòng (xà phòng thông thường hơn cũng xuất hiện trong các tài liệu nhưng thường đắt đỏ hơn).
Tiêu thạch trước đây được dùng để chỉ các loại muối nitrat đặc biệt, còn được biết đến với nhiều tên gọi khác của xanpet (vì chỉ có các muối nitrat mới phù hợp để chế tạo thuốc súng) vào thời điểm mà nitre và axit nitric dẫn xuất của nó lần đầu được sử dụng để đặt tên cho nguyên tố nitơ (nitrogen) vào năm 1790.
- Aphronitre
- Xanpet