Đại Áng
|
|
---|---|
Xã | |
Xã Đại Áng | |
Hành chính | |
Quốc gia | Việt Nam |
Vùng | Đồng bằng sông Hồng |
Thành phố | Hà Nội |
Huyện | Thanh Trì |
Địa lý | |
Diện tích | 5,25 km² |
Dân số (2022) | |
Tổng cộng | 11.882 người |
Mật độ | 2.263 người/km² |
Dân tộc | Kinh |
Khác | |
Mã hành chính | 00679 |
Đại Áng là một xã thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, Việt Nam, nằm ở phía nam.
Địa giới hành chính
Địa giới hành chính của xã Đại Áng được mô tả như sau:
- Phía nam giáp xã Khánh Hà (huyện Thường Tín).
- Phía tây giáp xã Mỹ Hưng (huyện Thanh Oai) và xã Tả Thanh Oai (huyện Thanh Trì).
- Phía bắc giáp các xã Vĩnh Quỳnh và Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì).
- Phía đông giáp xã Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì) và xã Nhị Khê (huyện Thường Tín).
Hành chính
Xã Đại Áng hiện nay có 4 thôn (làng): Đại Áng, Nguyệt Áng, Vĩnh Trung, Vĩnh Thịnh.
Làng Nguyệt Áng
Nguyệt Áng (làng Nguyệt) là một trong những làng cổ của xã Đại Áng, huyện Thanh Trì. Làng có từ thời Hùng Vương cai quản. Làng này thờ Công Ba đại vương, được cho là người em thứ ba của Vua Hùng Vương thứ nhất, có công giúp dân xây dựng làng xóm.
Tại đầu làng, vào năm 1993, đã phát hiện một ngôi mộ thuyền, trong đó có bộ tuỳ táng được làm từ đồng rất phong phú. Niên đại của mộ khoảng 2400 năm trước khi được phát hiện. Các nhà khảo cổ học đã xác định chủ nhân của ngôi mộ là một chiến binh thuộc tầng lớp thượng lưu của xã hội thời đó.
Thời phong kiến, Nguyệt Áng nổi tiếng với làng khoa bảng, có 11 người đỗ đại khoa, trong đó có 1 Trạng nguyên, 1 Thám hoa, 9 Tiến sĩ. Trong số này, có 5 người thuộc dòng họ Nguyễn Đình: Nguyễn Đình Trụ (đỗ năm 1656), Nguyễn Quốc Trinh (Trạng nguyên, 1659) và hai con là Nguyễn Đình Bách (1683), Nguyễn Đình Úc (Thám hoa, 1700), cùng cháu tôn của Nguyễn Quốc Trinh là Nguyễn Đình Quỹ (1715); và 3 người họ Lưu: Lưu Tiệp (1772), em ruột Lưu Định (1775) cùng cháu nội Lưu Quỹ (1835).
Làng còn có 29 người đỗ trung khoa (hương cống, cử nhân), gồm 17 người họ Nguyễn Đình, 8 người họ Lưu và 4 người họ Nguyễn Danh. Nhiều trường hợp, cha con, anh em, bố con cùng đỗ. Gia đình Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh có 4 người con đỗ Hương cống; cũng có rất nhiều trường hợp sinh đồ, tú tài.
Trong số những người đỗ đạt của làng Nguyệt, có nhiều người có tài, góp phần lớn cho sự nghiệp phụng sự đất nước. Nguyễn Quốc Trinh (1625 - 1674) là một trong số những tiêu biểu. Năm 1667, ông cầm đầu đoàn sứ bộ nhà Lê, thành công trong việc đàm phán với nhà Thanh để gộp hai kỳ tiến cống thành một, giảm thiểu chi phí cho triều đình và công việc của các đoàn sứ bộ. Sau đó, ông làm quan đến chức Bồi tụng (Phó Tể tướng), là người tin cậy của chúa Trịnh Tạc. Ông là một người can đảm, dám nói lên những điều không đúng trước triều thần.
Người thứ hai là Nguyễn Đình Trụ (1627 - 1703). Sau khi về hưu, ông thành lập trường dạy học, thu hút hàng nghìn học trò. Hơn 70 người sau này đỗ tiến sĩ và hương cống, thành đạt trong công việc đương thời. Ông được coi là một 'công phái thầy học'.
Người thứ ba là Lưu Quỹ (1811 - ?). Ông nổi tiếng với tính thẳng thắn, dám can ngăn các việc của vua nên bị giáng chức. Vào tháng 2 năm Tân Sửu (1841), khi Vua Thiệu Trị lên ngôi, Lưu Quỹ cùng Khoa đạo Nguyễn Bỉnh Đức đã đề xuất 10 điều sách lược trị nước cho vua, trong đó có 2 điều vua rất quan tâm: thận trọng trong sự ham chuộng và cẩn thận trong việc sử dụng con người.
Nguyệt Áng vẫn duy trì hệ thống đình, chùa và văn chỉ. Văn chỉ được thành lập bởi Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh và em trai Tiến sĩ Nguyễn Đình Trụ vào năm 1667, trước khi họ đi sứ. Ở đây còn có hai tấm bia đá quý (dựng năm 1667, 1876) ghi tên những người thành đạt của làng, là biểu tượng của truyền thống học hành và khoa bảng, là niềm tự hào của người dân.
Lễ hội hàng năm được tổ chức vào hai dịp chính: ngày 12 tháng 2 (ngày hoá của thần) và ngày 15 tháng 5 là ngày kỳ phúc. Lễ tháng 2 có rước bánh dày.
Làng Vĩnh Trung (Kẻ Vanh) hiện nay thuộc xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, trước đây thuộc tổng Vĩnh Ninh, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng. Làng nằm trong một vùng trũng ở phía Nam Hà Nội nên xưa kia, đồng ruộng quanh năm ngập nước, chỉ cấy được một vụ lúa. Để bổ sung thu nhập, người dân làng đã tham gia nghề làm nón.
Theo quan niệm phong thủy của người dân làng Vĩnh Trung, nghề làm nón phát triển từ việc án đình có ba mô đất tượng trưng cho ba ông công, một mô hình cái chảo, giống như một chiếc nón, một mô có hình cái giẻ lau giống lá nón. Sản phẩm chính của nghề làm nón ở đây là nón gủ, còn được gọi là nón Ba Tầm, sau chuyển sang làm nón lá từ khoảng 100 năm trước. Hoạt động làm nón chủ yếu diễn ra vào thời kỳ nông nhàn.
Làng Vĩnh Trung (Kẻ Vanh) nay thuộc xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, xưa thuộc tổng Vĩnh Ninh, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng. Làng nằm trong một vùng trũng ở phía Nam Hà Nội nên xưa kia, đồng ruộng quanh năm ngập nước, chỉ cấy được một vụ lúa chiêm. Để phụ thêm nông nghiệp, dân làng có nghề làm nón.
Kỹ thuật làm nón mặc dù không phức tạp nhưng quá trình sản xuất một sản phẩm yêu cầu sự lao động của cả gia đình suốt cả ngày: trẻ em và người cao tuổi bóc lá và làm lá; nam giới trung niên thì chẻ tre, vót, quấn vòng, đi xa mua nguyên vật liệu; phụ nữ thì lợp và may nón. Vào mùa cao điểm, người từ nhiều nơi đổ về đây làm thuê. Mặc dù công việc làm nón không có mức lương cao nhưng sản phẩm lại là vật dụng hằng ngày của mọi gia đình nông thôn nên rất dễ tiêu thụ, từ đó mang lại nguồn thu phụ cho nền nông nghiệp. Người dân làng Vĩnh Trung rất tự hào với nghề làm nón của mình:
- Muốn ăn cơm mà trăm trẻ, muốn đội nón đẹp thì về làng Kẻ Vanh.
Theo quan niệm từ xưa, làng Vĩnh Trung được xem như đất thánh. Làng có bốn ngọn đồi hình thành bốn xóm (Ngoài, Chùa, Đình, Thượng) tượng trưng cho bốn con vật linh thiêng là Long - Ly - Quy - Phượng. Làng từ lâu đã là một khối thống nhất, tất cả các dòng họ trong làng đều mang họ Nguyễn, sinh hoạt dựa vào sáu giai đoạn.
Làng hiện nay có hai ngôi đình cùng thờ ba vị 'Đại vương thần bắn', ba vị thần sống vào thời Hùng Vương thứ 18, đã có công diệt giặc cứu dân. Một ngôi được gọi là Miếu đình Linh Linh hay Đình Ngoài, là đình cổ, được xây dựng vào năm Bảo Thái thứ 6 (1725). Một ngôi khác là Đình Trong được xây dựng vào năm Thành Thái thứ 6 (1894). Làng còn có chùa Ứng Linh. Cả hai đình và chùa đều đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Lễ hội chính của làng diễn ra vào ba dịp: ngày 12-5 là ngày sinh và ngày phong sắc của thần, tổ chức rước các vị thần từ đình Ngoài vào đình Trong rồi lại rước trả về đình Ngoài. Ngày 12-6 là ngày hoá của thần, tổ chức lễ riêng tại các đình, sử dụng trâu hoặc bò của làng và lợn của các giai đoạn. Ngày 2 tháng Chạp là ngày Khánh hạ, các đình tổ chức lễ riêng, có cỗ xôi thờ.
Quá trình phát triển của các làng xã Đại Áng đã tạo ra những phong tục tốt đẹp. Ngày xưa, việc kết hôn trong làng được thể hiện bằng việc lát một con đường dài 7,5 mét. Đặc biệt, làng có truyền thống kết nghĩa với Vĩnh Thịnh và Vĩnh Ninh được gọi là 'Hội kết nghĩa Tam Vĩnh'.
Làng Vĩnh Thịnh nổi tiếng với lịch sử lâu đời.
Làng Vĩnh Thịnh ban đầu thuộc tổng Vĩnh Ninh, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Trước đây, làng có 5 xóm: Nghè, Viềng, Giữa, Chùa, Sau và 5 giáp: Đông Nhất, Đông Nhì, Bắc, Nam, Đoài. Hiện nay, làng thuộc xã Đại Áng, huyện Thanh Trì.
Người dân làng chủ yếu làm nông nghiệp và nghề làm nón. Theo truyền thống, ông Phạm Quảng từ xã Minh Linh, huyện Kinh Môn (Hải Dương) đã truyền nghề làm nón cho làng. Hoạt động buôn bán cũng rất phát triển, từ việc đi buôn bè ở Lào Cai, Yên Bái đến buôn các sản phẩm thủ công như nón Chuông (Thanh Oai), cót Vạn Phúc, các dụng cụ đánh cá của làng Đan Nhiễm... mang xuống Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định để bán. Nhiều người dân đã mở cửa hàng ở các thành phố, tỉnh lỵ, giúp cuộc sống của họ ổn định và phát triển nghề nghiệp.
- Người dân làng Vĩnh Thịnh tự hào với nghề buôn của mình:
Làng Vĩnh Thịnh hiện vẫn còn đình thờ được xây dựng từ năm Bảo Thái thứ 6 (1725) và đã được tu sửa lại vào năm Nhâm Thân thời Bảo Đại (1932). Đình thờ Phạm Xạ - một người con làng và là một vị tướng của vua Lê Lợi. Theo truyền thuyết và thần phả, khi vua Lê Lợi dẫn quân ra Bắc để đánh Minh (1426), ông đã ghé qua làng Vĩnh Thịnh. Phạm Xạ, một thanh niên trẻ tuổi với tài võ nổi trội, được vua Lê Lợi tin tưởng và giao phó nhiệm vụ tuyển mộ binh sĩ. 243 thanh niên làng Vĩnh Bảo đã cùng với Phạm Xạ tham gia vào đội quân của vua Lê Lợi. Phạm Xạ đã tham gia và lãnh đạo nhiều trận đánh quan trọng, trong đó có trận Chi Lăng tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), nổi bật với việc đánh bại tướng địch Liễu Thăng và được vua Lê Lợi phong làm Thống chế Tả tướng quân. Hiện nay, miếu thờ Phạm Xạ vẫn còn ba bản sắc phong vào các đời Thành Thái, Duy Tân và Khải Định, 8 bức hoành phi và 19 câu đối ca ngợi tài nghệ và công lao của Phạm Xạ.
- Lễ hội hàng năm diễn ra vào các ngày: 13-2 (ngày sinh của thần), 12-5 (ngày Khánh hạ) và ngày 10 tháng Một (ngày hoá của thần). Trong hội tháng 2 có tục đón tiếp các quan viên hai làng kết nghĩa là Vĩnh Trung và Vĩnh Ninh, được gọi là 'Hội kết nghĩa Tam Vĩnh'.
Ngoài đình thờ Phạm Xạ, làng Vĩnh Thịnh còn có chùa Thanh Dương và đền Hoành Sơn thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Lễ hội thường niên diễn ra vào các ngày: 13-2 (ngày sinh của thần), 12-5 (ngày Khánh hạ) và ngày 10 tháng Một (ngày hoá của thần). Trong lễ hội tháng 2 có tục đón tiếp quan viên từ hai làng kết nghĩa là Vĩnh Trung và Vĩnh Ninh, gọi là 'Hội kết nghĩa Tam Vĩnh'.