Obi (帯/ おび) là một loại khăn quấn quanh thắt lưng dành cho trang phục truyền thống Nhật Bản, keikogi (đồng phục võ thuật Nhật Bản), và là một phần của bộ trang phục kimono.
Đai obi cho kimono nam thường không quá rộng, với kích thước tối đa khoảng 10 cm (3,9 inch), trong khi đai obi trang trọng dành cho phụ nữ có thể rộng tới 30 cm (12 inch) và dài từ 2–4 mét (6,6–13,1 feet). Ngày nay, đai obi rộng được dùng chủ yếu để trang trí cho phụ nữ, không còn dùng để giữ chặt kimono như trước; việc này được thực hiện bởi các lớp khăn quấn bên trong và dải lụa quấn dưới đai obi. Đai obi thường cần đến các vật làm cứng và ruy băng để tạo hình và trang trí.
Có nhiều loại đai obi, chủ yếu dành cho phụ nữ: loại obi rộng được làm từ vải thổ cẩm và rộng hơn, và loại obi đơn giản hơn dành cho sử dụng hàng ngày. Loại obi rực rỡ và nhiều màu sắc nhất thường dành cho những phụ nữ trẻ chưa có chồng. Trong thời đại hiện nay, obi của phụ nữ là một phụ kiện rất nổi bật, đôi khi thậm chí còn nổi bật hơn cả chiếc áo kimono. Một chiếc obi trang trọng chất lượng tốt có thể có giá trị cao hơn cả toàn bộ phần còn lại của bộ trang phục.
Đai obi được phân loại dựa trên thiết kế, kiểu dáng, chất liệu và cách sử dụng. Các loại obi không trang trọng thường có kích thước ngắn và rộng hơn.
Lịch sử
Trong những ngày đầu, đai obi chỉ là một sợi dây hoặc khăn quấn dạng băng, dài khoảng 8 cm (3,1 inch). Thời điểm đó, obi của nam và nữ có thiết kế khá tương đồng. Đến đầu thế kỷ XVII, cả phụ nữ và nam giới đều dùng loại obi dạng băng. Vào những năm 1680, chiều dài obi của phụ nữ đã tăng gấp đôi so với kích thước ban đầu. Đến những năm 1730, obi của phụ nữ rộng khoảng 25 cm (9,8 inch), và vào cuối thế kỷ XIX đã rộng khoảng 30 cm (12 inch). Vào thời kỳ này, các dây băng và dây buộc đặc biệt cần thiết để giữ cho obi ổn định. Obi của nam rộng nhất vào những năm 1730, khoảng 16 cm (6,3 inch).
Trước thời kỳ Edo, khoảng năm 1600, những bộ kosode của phụ nữ được thắt bằng một chiếc khăn quấn rộng quanh hông. Việc gắn tay áo rộng vào thân trang phục có thể hạn chế việc sử dụng các loại obi rộng hơn. Khi tay áo kosode được may dài hơn vào đầu thời kỳ Edo, đai obi cũng được mở rộng hơn. Điều này có hai lý do: trước tiên, để đảm bảo sự hài hòa về mặt thẩm mỹ, tay áo dài hơn cần một chiếc khăn quấn rộng để cân đối; thứ hai, khác với hiện nay khi chỉ phụ nữ chưa kết hôn mới sử dụng, phụ nữ đã kết hôn cũng mặc kimono dài tay vào những năm 1770. Việc sử dụng tay áo dài mà không để phần dưới cánh tay mở gây cản trở nhiều hoạt động. Phần mở dưới cánh tay tạo không gian cho loại obi rộng hơn.
Ban đầu, tất cả các đai obi đều được thắt ở phía trước. Tuy nhiên, theo thời gian, xu hướng thời trang đã thay đổi cách thắt đai, cho phép đai được thắt ở hông hoặc sau lưng. Khi đai obi trở nên rộng hơn, các nút thắt cũng lớn hơn, khiến việc thắt obi ở phía trước trở nên cồng kềnh. Vào cuối thế kỷ XVII, việc thắt obi chủ yếu được thực hiện ở phía sau. Tuy nhiên, phong tục này chưa được thiết lập vững chắc cho đến đầu thế kỷ XX.
Cuối thế kỷ XVIII chứng kiến sự xuất hiện của kiểu kosode mới cho phụ nữ, với đường viền áo dài đủ để kéo lê khi ở trong nhà. Khi ra ngoài, phần vải thừa được buộc gọn gàng dưới đai obi bằng một dải vải rộng gọi là shigoki obi. Kimono hiện đại cũng được làm tương tự, nhưng không kéo lê dưới đất; phần vải thừa được cố định ở hông, tạo thành nếp gấp gọi là ohashori. Shigoki obi vẫn được sử dụng, nhưng chủ yếu cho mục đích trang trí.
Ngày nay, loại obi trang trọng nhất đang dần lỗi thời. Đai maru obi dài và nặng hiện chỉ được sử dụng bởi maiko và cô dâu trong trang phục cưới. Đai nhẹ hơn như fukuro obi đã thay thế maru obi. Loại obi được dùng hàng ngày là Nagoya obi đang phổ biến nhất hiện nay, và những loại rực rỡ hơn có thể được chấp nhận trong trang phục bán nghi lễ. Việc sử dụng musubi, các nút trang trí, cũng đã giảm, hiện tại phụ nữ chủ yếu sử dụng nút đơn giản taiko musubi, còn gọi là 'nút cái trống'. Loại đai tsuke obi với nút thắt sẵn cũng đang trở nên phổ biến.
Cơ sở dệt Tatsumura ở Nishijin, Kyoto, hiện là trung tâm sản xuất các phụ kiện sang trọng này. Được thành lập bởi Heizo Tatsumura I vào thế kỷ XIX, cơ sở này nổi tiếng với việc tạo ra một trong những obi quý giá nhất. Một trong những học trò của ông, Dōmoto Inshō, sau này trở thành một họa sĩ nổi tiếng. Kỹ thuật Nishijin-ori rất phức tạp, có thể tạo ra hiệu ứng ba chiều và có giá trị lên đến 1 triệu yên.
Học viện Kimono do Kazuko Hattori sáng lập vào thế kỷ XX chuyên dạy cách thắt đai obi và cách đeo nó đúng cách.
Đai obi dành cho phụ nữ
1. tsuke/tsukuri/kantan obi
2. hanhaba obi
3. Nagoya obi
4. Fukuro obi
5. Maru obi
Đai obi rộng cho phụ nữ thường có chiều rộng từ 15 xentimét (5,9 in) đến 20 xentimét (7,9 in) khi gập đôi để đeo. Một chiếc obi được coi là thanh lịch khi chiều rộng của nó tương xứng với kích thước cơ thể của người sử dụng. Tỷ lệ lý tưởng thường là một phần mười chiều cao của người phụ nữ. Chiều rộng toàn bộ của obi chỉ được thể hiện qua nút thắt trang trí, musubi.
Đai obi nữ được trang trí với nút thắt musubi cầu kỳ. Có tổng cộng mười kiểu thắt obi khác nhau, mỗi kiểu phù hợp với các dịp và bộ kimono khác nhau.
Có nhiều loại obi dành cho phụ nữ và cách sử dụng chúng được quy định bởi các nguyên tắc không chính thức tương tự như quy tắc của bộ kimono. Một số loại obi tương ứng với các loại kimono cụ thể; cách thắt obi cho phụ nữ đã kết hôn và chưa kết hôn cũng khác nhau. Đôi khi, obi có thể ảnh hưởng đến sự trang trọng và vẻ lộng lẫy của bộ kimono: cùng một bộ kimono có thể được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau tùy thuộc vào loại obi đi kèm.
Các loại obi dành cho phái nữ
- Darari obi (だらり帯) là một loại maru obi rất dài được đeo bởi maiko. Một darari obi của maiko có dấu hiệu kamon của người chủ sở hữu okiya ở cuối vạt khăn. Một darari obi có thể dài tới 600 xentimét (20 ft).
- Fukuro obi (袋帯 "obi cái đẫy") là một loại kém trang trọng về đẳng cấp hơn maru obi và là loại obi trang trọng nhất được thực sự sử dụng ngày nay. Nó được làm bằng cách xếp làm đôi miếng vải hoặc may hai miếng vải vào nhau. Nếu sử dụng hai miếng vải, loại vải dùng cho mặt sau của obi có thể rẻ hơn và mặt trước có thể may bằng loại vải như thổ cẩm. Không tính các trang phục kết hôn, fukuro obi đã thay thế maru obi nặng nề như loại obi được sử dụng trong lễ nghi và dịp kỉ niệm. Fukuro obi thường được làm phần không lộ ra khi đeo bằng loại lụa trơn, mỏng và mềm hơn. Một fukuro obi rộng khoảng 30 xentimét (12 in) và dài khoảng 360 xentimét (11,8 ft) tới 450 xentimét (14,8 ft).
Khi đeo, fukuro obi hầu như không khác gì một maru obi. Fukuro obi được làm thành khoảng ba loại con. Loại trang trọng và đắt tiền nhất trong số chúng được làm từ loại vải thổ cẩm có hoạ tiết ở cả hai mặt. Loại thứ hai có hoạ tiết ở khoảng hai phần ba diện tích khăn, được gọi là "fukuro obi 60%", và nó hơi rẻ hơn và nhẹ hơn loại đầu tiên. Loại thứ ba chỉ có hoạ tiết trên những phần nổi bật khi đeo obi trong nút thường gặp taiko musubi. - Fukuro Nagoya obi (袋名古屋帯) hoặc hassun Nagoya obi (八寸名古屋帯 "Nagoya obi tám tấc") là loại obi được may làm hai ở phần bắt đầu nút thắt taiko. Phần quấn xung quanh cơ thể được xếp lại khi bắt đầu. Loại fukuro Nagoya obi được dùng để tạo ra loại taiko musubi hai lớp trang trọng hơn, gọi là nijuudaiko musubi. Nó dài khoảng 350 xentimét (11,5 ft).
- Hoso obi (細帯 "khăn mỏng") là một tên gọi tập hợp các loại obi không trang trọng với một nửa độ dài ban đầu. Hoso obi rộng 15 xentimét (5,9 in) hoặc 20 xentimét (7,9 in) và dài khoảng 330 xentimét (10,8 ft).
- Hanhaba obi (半幅帯 / 半巾帯 "obi nửa độ dài") là một loại obi không có viền và không trang trọng được sử dụng với yukata, loại kimono mặc thường ngày. Hanhaba obi rất phổ biến trong những ngày này. Để dùng với yukata, loại hanhaba obi đảo ngược khá phổ biến: chúng có thể được gấp lại và xoắn theo nhiều cách để tạo ra các hiệu ứng màu sắc. Một hanhaba obi rộng khoảng 15 xentimét (5,9 in) và dài khoảng 300 xentimét (9,8 ft) tới 400 xentimét (13 ft). Việc thắt loại obi này tương đối dễ dàng, và việc sử dụng nó không cần có các miếng đệm hoặc dây buộc phụ. Các loại nút dùng cho hanhaba obi thường là những kiểu giản lược bunko-musubi. Khi người ta ngày càng "chấp nhận" việc chơi với một loại obi không trang trọng, hanhaba obi đôi khi được đeo theo nhiều phong cách tự sáng chế ra, thường với các dải lụa và các vật trang trí.
- Kobukuro obi (小袋帯) là một loại hoso obi không viền với chiều rộng khoảng 15 xentimét (5,9 in) hoặc 20 xentimét (7,9 in) và dài khoảng 300 xentimét (9,8 ft).
- Hara-awase obi (典雅帯) hoặc chūya obi (昼夜帯 "obi ngày và đêm") là một loại obi không trang trọng có các mặt có màu khác nhau. Nó thường được thấy trong các tranh ảnh từ thời kỳ Edo và Minh Trị, nhưng ngày nay hầu như không được sử dụng. Một chūya obi ("ngày và đêm") có một mặt màu tối, trang trí nhẹ nhàng và một mặt khác, rực rỡ hơn và vui tươi hơn. Bằng cách này, loại obi này có thể đeo được trong cả cuộc sống thường ngày và cho lễ hội. Loại obi này rộng khoảng 30 xentimét (12 in) và dài khoảng 350 xentimét (11,5 ft) tới 400 xentimét (13 ft).
- Heko obi (兵児帯 "obi mềm") là một loại obi rất bình dân được làm từ vải mềm, mỏng, thường được nhuộm với shibori. Theo truyền thống, nó thường được dùng như một loại obi không trang trọng cho trẻ em và đàn ông, và đôi khi nó được coi là hoàn toàn không phù hợp với phụ nữ. Ngày nay, các bé gái và phụ nữ có thể đeo heko obi với những loại kimono hiện đại không trang trọng và yukata. Một heko obi cho người trưởng thành có kích cỡ bằng với kích cỡ thông thường của obi, rộng khoảng 20 xentimét (7,9 in) tới 30 xentimét (12 in) và dài khoảng 300 xentimét (9,8 ft).
- Hitoe obi (単帯 "obi đơn") được làm từ loại vải lụa cứng đến mức obi không cần lớp lót hoặc may cứng lại. Một trong các loại vải này là Hakata ori (博多織
- Kyōbukuro obi (京袋帯 "fukuro obi thủ đô") được phát minh vào thập niên 1970 ở Nishijin, Kyoto. Nó có cách dùng phối hợp giữa Nagoya obi và fukuro obi, và có thể được sử dụng để làm nổi bật trang phục thường ngày. Kyōbukuro obi có cấu trúc giống như fukuro obi, nhưng ngắn như một chiếc Nagoya obi. Do đó, nó cũng có thể được đeo ngược lại từ trong ra ngoài như các loại obi lộn ngược. Kyōbukuro obi rộng khoảng 30 xentimét (12 in) và dài 350 xentimét (11,5 ft).
- Maru obi (丸帯 "obi một mảnh") là loại obi trang trọng nhất. Nó được may từ một miếng vải rộng khoảng 68 cm và được gấp lại quanh lớp lót kép và khâu lại với nhau. Maru obi nổi tiếng nhất vào thời kỳ Đại Chính và Minh Trị. Độ lớn và khối lượng của chúng khiến người dùng khó làm chủ được maru obi, và ngày nay chúng chủ yếu được đeo bởi các geisha, maiko và những người tương tự. Một cách dùng khác cho maru obi là như một phần trong trang phục của cô dâu trong lễ thành hôn. Maru obi rộng khoảng 30 xentimét (12 in) tới 35 xentimét (14 in) và dài khoảng 360 xentimét (11,8 ft) tới 450 xentimét (14,8 ft), được thêu hoa văn toàn bộ và thường được trang trí với sợi chỉ và chi tiết trang trí có chạm trổ bọc kim loại.
- Nagoya obi (名古屋帯) – hoặc để phân biệt với fukuro Nagoya obi, cũng gọi là kyūsun Nagoya obi (九寸名古屋帯 "Nagoya obi chín tấc") – là loại obi được sử dụng nhiều nhất ngày nay. Nagoya obi được phân biệt bởi cấu trúc của nó: một đầu được gấp lại và được khâu lại một nửa, đầu còn lại có chiều rộng đầy đủ. Điều này làm cho việc đeo obi trở nên dễ dàng hơn. Nagoya obi có thể được thêu hoa văn một phần hoặc toàn bộ. Nó thông thường chỉ được đeo theo phong cách taiko musubi, và nhiều chiếc Nagoya obi được thiết kế để chỉ có hoạ tiết ở phần nổi bật nhất trong nút thắt. Nagoya obi ngắn hơn các loại obi khác, dài khoảng 315 xentimét (10,33 ft) tới 345 xentimét (11,32 ft), nhưng có cùng chiều rộng, khoảng 30 xentimét (12 in).
Loại Nagoya tương đối mới, nó được phát triển bởi một thợ may sống ở Nagoya vào cuối những năm 1920. Loại obi mới dễ dùng mới, dễ sử dụng đã trở nên phổ biến trong giới geisha ở Tokyo, từ đó loại obi này đã được tiếp nhận bởi các cô gái thành phố thời thượng cho việc sử dụng hàng ngày của họ.
Tính trang trọng và nổi bật của một chiếc Nagoya obi phụ thuộc vào vật liệu của nó, giống như các loại obi khác. Khi mà Nagoya obi ban đầu được sử dụng như phục trang thường ngày, nó không bao giờ có thể là một phần của một bộ trang phục nghi lễ thực sự, nhưng một Nagoya obi được làm từ loại thổ cẩm thượng hạng có thể được chấp nhận như một phục trang bán nghi lễ.
Thuật ngữ Nagoya obi cũng có thể đề cập tới một loại obi cùng tên khác, được sử dụng nhiều thế kỷ trước đó. Loại Nagoya obi này có cấu trúc giống như một băng đeo nhỏ. - Odori obi (踊帯 "obi nhảy múa") là tên gọi của một loại obi sử dụng trong các động tác nhảy múa. Một chiếc odori obi thường to, thêu hoạ tiết đơn và có hoạ tiết có màu kim loại để khán giả có thể dễ dàng nhìn thấy. Odori obi có thể rộng từ 10 xentimét (3,9 in) tới 30 xentimét (12 in) và dài từ 350 xentimét (11,5 ft) tới 450 xentimét (14,8 ft). Khi thuật ngữ "odori obi" chưa được tạo ra, nó có thể đề cập tới bất kì loại obi nào có ý nghĩa dành cho nhảy múa.
- Sakiori obi () là một loại obi dệt được may bằng cách dùng các dải hẹp hoặc có độ rộng khoảng một mét từ trang phục cũ dệt lại với nhau. Sakiori obi được dùng với kimono để mặc ở nhà. Sakiori obi tương tự như hanhaba obi về kích cỡ và rất bình dân.
- Tenga obi (典雅帯 "obi tao nhã") giống với một hanhaba obi nhưng trang trọng hơn. Nó thường rộng hơn và được làm từ loại vải tao nhã hơn, phù hợp hơn với lễ hội. Các hoạ tiết chủ yếu bao gồm các mô típ may mắn và có tính lễ hội. Tenga obi rộng khoảng 20 xentimét (7,9 in) và dài từ 350 xentimét (11,5 ft) tới 400 xentimét (13 ft).
- Tsuke obi (付け帯) hoặc tsukuri obi (作り帯) hoặc kantan obi (簡単帯 "obi đơn giản") là bất kì loại obi nào được thiết kế sẵn sàng để thắt. Nó thường có một phần nút riêng rẽ được hỗ trợ bởi bìa và một phần được bao lại xung quanh eo. Tsuke obi được thắt cố định bởi các dải lụa. Tsuke obi thông thường rất bình dân và chúng chủ yếu được dùng với yukata.
Phụ kiện đi kèm với obi của phụ nữ
- Obiage (帯揚げ 'lót cho obi') là một dải vải tương tự như khăn choàng để che phủ obimakura và giữ cho phần trên của nút thắt obi được cố định. Ngày nay, các cô gái trẻ chưa kết hôn thường để obiage lộ ra trước obi, trong khi các phụ nữ đã kết hôn sẽ giấu nó sâu hơn, chỉ để lộ một phần nhỏ. Obiage có thể coi là một phần của trang phục lót cho kimono, vì thế việc để lộ nhiều hơn có thể được xem là một kiểu thể hiện khêu gợi.
- Obidome (帯留 'cái kẹp obi') là một phụ kiện trang trí nhỏ được gắn trên obijime.
- Obi-ita là một tấm cứng nhỏ giúp giữ cho obi phẳng. Đây là một miếng bìa mỏng bọc vải, đặt giữa các lớp obi khi đeo. Một số loại obi-ita có thể được buộc quanh eo bằng dây trước khi đeo obi.
- Obijime (帯締め) là một sợi dây dài khoảng 150 xentimét (4,9 ft) quấn quanh obi và luồn qua nút thắt, làm tăng yếu tố trang trí. Obijime có thể là dây đan hoặc dạng ống vải hẹp, thường có tua rua ở cả hai đầu và làm từ lụa, satin, thổ cẩm hoặc viscose. Dạng dây hoặc ống độn bông của obijime thường được xem là vui tươi và phù hợp cho các dịp lễ hội hơn là dạng phẳng.
- Obimakura (帯枕 'gối obi') là một cái gối nhỏ giúp hỗ trợ và định hình nút thắt obi. Nút thắt phổ biến nhất hiện nay, taiko musubi, được thực hiện bằng cách sử dụng obimakura dạng vòng kéo dài.
Obi của nam giới
Các loại obi dành cho nam thường hẹp hơn nhiều so với các loại obi của phụ nữ, với chiều rộng lớn nhất chỉ khoảng 10 xentimét (3,9 in). Obi nam thường được quấn quanh eo, dưới bụng và thắt với một nút đơn giản ở phía sau lưng, tạo nên kiểu dáng đơn giản hơn rất nhiều so với nữ giới.
Obi cho nam giới
- Heko obi (兵児帯 'obi cho nam từ 15 đến 25 tuổi') là loại obi mềm mại, rủ xuống tự do, được làm từ các chất liệu như lụa đen, habutai, cotton hoặc các vải khác. Heko obi có chiều dài tương đương với obi bình thường từ 350 xentimét (11,5 ft) đến 400 xentimét (13 ft) và chiều rộng lên đến 74 xentimét (29 in). Mặc dù nam giới trưởng thành thường chỉ sử dụng heko obi ở nhà, các chàng trai trẻ có thể mặc nó khi ra ngoài, chẳng hạn như trong các lễ hội mùa hè với yukata.
- Kaku obi (角帯 'obi cứng') là một loại obi khác dành cho nam. Kaku obi trang trọng có chiều rộng khoảng 10 xentimét (3,9 in) và chiều dài 400 xentimét (13 ft). Tùy thuộc vào chất liệu, màu sắc và hoa văn, nó có thể phù hợp với nhiều hoàn cảnh khác nhau, từ trang phục hàng ngày đến trang phục cho đám tang. Kaku obi thường được làm từ hakata ori (nguồn gốc của Hakata obi với sọc dài), hoặc từ lụa mộc, lụa trong, lụa Damask và được thắt theo kiểu đơn giản kai-no-kuchi.
Các phụ kiện
Netsuke là một phụ kiện trang trí nhỏ được treo trên obi của nam giới.
Obi dành cho trẻ em
Trẻ em thường mặc kimono đặc biệt trong lễ hội Shichi-Go-San (Bảy-năm-ba), dành cho các bé gái ba và bảy tuổi, và các bé trai năm tuổi. Kimono của trẻ em về cơ bản là phiên bản thu nhỏ của kimono người lớn. Những bé nhỏ tuổi nhất thường đeo obi mềm như khăn quàng cổ.
Các kiểu obi cho trẻ em
- Sanjaku obi (三尺帯, さんじゃくおび 'obi ba thước') là một loại obi dành cho nam, có độ dài khoảng ba thước Nhật (鯨尺 khoảng 37,9 xentimét (14,9 in)). Loại obi này cũng được gọi là sanjaku (三尺). Trong thời kỳ Edo, sanjaku obi rất phổ biến trong các bộ kimono như yukata vì sự tiện lợi của nó. Theo một số nguồn, sanjaku obi bắt nguồn từ một chiếc khăn quàng cổ dài tương tự, được gấp lại để làm obi. Nó thường có hình dạng hẹp và có các đoạn thêu ngắn, được làm từ các loại vải mềm như cotton. Với chiều dài hạn chế, sanjaku obi thường được thắt bằng nút koma musubi, giống như nút kép.
Obi trong võ thuật
Trong nhiều môn võ thuật Nhật Bản, obi là một phần quan trọng của trang phục tập luyện. Những obi này thường được làm từ vải cotton dày, rộng khoảng 5 xentimét (2,0 in). Obi trong võ thuật thường được thắt bằng nút koma-musubi; khi đeo hakama, cách thắt obi có thể khác.
Trong nhiều môn võ thuật, màu sắc của obi cho biết trình độ kỹ năng của người đeo. Thường thì màu sắc bắt đầu từ màu trắng cho người mới và kết thúc bằng màu đen cho cấp cao nhất, hoặc màu đỏ và trắng cho các võ sư. Khi kết hợp với hakama, màu sắc của obi không còn ý nghĩa.
Các loại nút thắt (musubi)
Nút thắt của obi được gọi là musubi (結び, むすび musubi, có nghĩa là 'nút'). Hiện nay, một nút thắt cho phụ nữ không chỉ giữ obi cố định mà còn là một phần trang trí lớn ở phía sau lưng. Thực tế, nút thắt thường được hỗ trợ bởi các phụ kiện như tấm lót, khăn quàng cổ và dây băng. Khi đeo obi, đặc biệt khi không có hỗ trợ, cần sử dụng thêm dây băng tạm thời.
Có rất nhiều kiểu nút thắt trang trí, thường đại diện cho hoa cỏ hoặc chim muông. Giống như các phần khác của trang phục kimono, các nút thắt cũng được quy định bởi những quy tắc không chính thức. Nói chung, các nút thắt phức tạp và cầu kỳ thường dành cho phụ nữ trẻ chưa lập gia đình trong các dịp lễ hội, trong khi các nút thắt đơn giản hơn dành cho phụ nữ đã kết hôn hoặc trưởng thành, hoặc dùng trong các tình huống trang trọng.
Ngày xưa, các nút thắt được cho là có tác dụng xua đuổi linh hồn tà ác. Nhiều loại nút thắt mang ý nghĩa kép tích cực.
Các kiểu nút thắt
- Asagao musubi (朝顔, あさがお 'hoa bìm bìm') là kiểu nút thắt lý tưởng cho yukata. Tên gọi của nó gợi nhớ đến hình dáng của hoa bìm bìm. Nút thắt này yêu cầu obi dài, thường chỉ dùng cho các bé gái.
- Ayame musubi (菖蒲, あやめ 'hoa diên vĩ') là một nút thắt cầu kỳ và trang trí cao, giống như một đoá hoa diên vĩ. Phù hợp cho phụ nữ trẻ trong các dịp và bữa tiệc không trang trọng. Vì tính phức tạp và sự nổi bật của nó, nút thắt này nên kết hợp với kimono và obi đơn giản hơn, với màu sắc trung tính.
- Bara musubi (薔薇, バラ 'hoa hồng') là một kiểu nút thắt hiện đại, nổi bật và thường được phụ nữ trẻ chọn cho các bữa tiệc không chính thức. Đối với nút thắt này, không nên dùng obi nhiều màu hay có hoa văn mạnh mẽ. Nút thắt này nên phù hợp với kimono có họa tiết tương ứng.
- Chōchō musubi (蝶蝶, ちょうちょう 'nút bướm') là một biến thể của bunko musubi, sử dụng hanhaba obi. Nút thắt kiểu bướm này thường thấy trên các loại obi thắt sẵn (tsuke obi).
- Kimono
- Obi: một dải vải quấn quanh quyển sách
- Trang phục truyền thống Nhật Bản
Hình ảnh minh họa
- Bennett, Gary (1997). Các kỹ thuật & chiến thuật Aikido. Nhà xuất bản Human Kinetics. ISBN 0-88011-598-X.
- Dalby, Liza (2001). Kimono, Tạo dựng Văn hóa. Vintage. ISBN 0-09-942899-7.
- Fält, Olavi K.; Nieminen, Kai; Tuovinen, Anna; Vesterinen, Ilmari (2006). Văn hóa Nhật Bản (bằng tiếng Phần Lan). Otava. ISBN 951-1-12746-2.
- Goodman, Fay (1998). Sách Toàn diện về Võ thuật. Lorenz Books. ISBN 1-85967-778-9.
- Yamanaka, Norio (1986). Sách về Kimono. Kodansha International. ISBN 0-87011-785-8.
Trang phục Nhật Bản | ||
---|---|---|
Truyền thống |
| |
Đồ đeo / đội đầu |
| |
Thắt lưng / khăn quấn |
| |
Giày dép |
|
Tiêu đề chuẩn |
|
---|