Chỉ xét một cách đặc biệt một truyện ngắn Đời thừa (được in lần đầu vào cuối năm 1943), chúng ta có thể nhận ra tấn bi kịch đó với những nghịch cảnh, bế tắc và xót xa.
Hộ, nhân vật chính của Đời thừa, là một nhà văn có tài và đầy tâm huyết. Người đọc có thể nhận ra nhiều đặc điểm tự truyện của chính Nam Cao trong Hộ. Hộ đã từng viết ra những tác phẩm có giá trị, được bạn bè và đồng nghiệp trong ngành viết văn, cũng như người đọc, yêu mến và động viên. Tuy nhiên, Hộ không bao giờ ngừng khao khát vươn lên một tầm cao mới, không bao giờ hài lòng với những gì đã đạt được. Hộ luôn mong muốn đạt được tinh thần cao quý và hoàn hảo nhất của nghệ thuật. Hộ mong mỏi tưởng tượng về một tác phẩm 'sẽ làm cho mọi tác phẩm cùng thời trở nên phai nhạt'.
Hộ hiến dâng cuộc đời cho nghệ thuật. Với Hộ, nghệ thuật là mọi thứ, là trên hết, là niềm đam mê nghệ thuật cao nhất, loại trừ tất cả các niềm đam mê khác. Cuộc sống hàng ngày của Hộ chỉ có hai việc: đọc và viết, nếu không viết thì đọc, nếu không đọc thì viết; đọc để hoàn thiện kỹ năng viết của mình hơn nữa, đọc để thưởng thức vẻ đẹp chân chính, vẻ đẹp cao quý của nghệ thuật văn học; viết để sáng tạo, để thể hiện những khát vọng đẹp đẽ của mình về văn chương hiện thực. Đọc và viết, Hộ quên hết mọi thứ trong cuộc sống nhỏ bé, quên hết mọi khó khăn và nghèo khó của một nhà văn nghèo. Trong cái nhìn của Hộ, cả sự nghèo khó ấy cũng là một vẻ đẹp, vẻ đẹp của một nhà văn, một con người hiến dâng bản thân vì nghệ thuật, vì nghệ thuật văn chương.
Hộ (cũng như Nam Cao) có thể coi là một nhà văn mang tinh thần nghệ thuật không? Không. Với Hộ, nghề văn thực sự là một nghề cao quý trong cuộc sống, là một nghề mang ý nghĩa phục vụ con người, phục vụ nhân loại ở mức độ cao. Điều này làm cho con người trở nên phong phú hơn, cao quý hơn, lòng nhân ái và độ lượng hơn, gần gũi hơn với nhau. Hộ đặt ra những tiêu chuẩn cao và không bao giờ tự mãn với chính mình, vì vẻ đẹp và tuyệt vời của nghệ thuật, cũng như trách nhiệm cao đối với độc giả, đối với nhân loại mà Hộ phục vụ. Đối với Hộ, việc sản xuất ra một tác phẩm mờ nhạt, nông cạn, và viết bừa bãi không chỉ là thiếu lòng tự trọng, mà còn là một hành động thiếu trách nhiệm, thậm chí là một hành động lừa dối. Hộ không muốn chỉ là một 'thợ thủ công khéo léo' trong nghề văn. Hộ muốn 'khám phá những điều chưa từng được khám phá và tạo ra những điều chưa từng có'. Cuộc sống của Hộ, với những ước mơ như vậy, luôn nỗ lực để đạt được, để hoàn thiện, luôn nhận ra mối mâu thuẫn giữa những gì đã đạt được và những gì cần phải đạt được, luôn cố gắng để giải quyết mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng, để tiến lên; chỉ với những điều đó thôi đã đủ khiến người ta không yên, đủ khiến người ta cảm thấy đau khổ, đôi khi thậm chí cảm thấy tan vỡ. Nhưng không chỉ thế, tấn bi kịch của Hộ còn sâu sắc hơn nhiều!
Là người tôn trọng cái đẹp và cao quý trong văn chương, Hộ cũng mong muốn sống một cuộc sống đẹp trong vai trò một con người. Và Hộ đã có một hành động đẹp, đầy lòng nhân ái. Hộ đã cứu vãn danh dự của Từ, cứu sống cuộc đời của Từ, cứu vãn Từ vào thời điểm cần thiết nhất. Với tư cách là một người chồng, một người cha, Hộ mong muốn Từ và các con của mình hạnh phúc, ít nhất là không khổ cực, không đau khổ. Nhưng Hộ đã đạt được điều gì? Từ càng ngày càng khốn khổ, càng gầy sụp, mệt mỏi vì thiếu thốn, đói khát. Các con của Hộ cũng càng ngày càng yếu đuối, bệnh tật. Thậm chí chỉ nhìn thấy cảnh đó cũng đủ khiến đau lòng, đầy bi kịch, bi kịch của một người muốn làm điều tốt, muốn hạnh phúc cho người khác mà không thể.
Tuy nhiên, bi kịch chính của Hộ là ở đây: sự mâu thuẫn giữa khát vọng của một nghệ sĩ và ước muốn trở thành một con người tốt. Để kiếm tiền để nuôi vợ con (thậm chí chỉ để tránh đói), Hộ phải viết những tác phẩm mà ngay khi hoàn thành, chính Hộ đã cảm thấy mệt mỏi. Hộ phải đối mặt ngay với bản thân mình, vi phạm những tiêu chuẩn mà Hộ đặt ra cho bản thân trong vai trò nghệ sĩ. Viết văn để kiếm tiền, viết vội vàng, viết cẩu thả, đó là điều không thể tha thứ, không thể chấp nhận được đối với Hộ. Nhưng để trở thành một nghệ sĩ chân chính? Hộ phải hy sinh vợ con, thậm chí là tàn nhẫn với họ. Nhưng với Hộ, điều đó cũng là hèn nhát, là thiếu trách nhiệm, không thể tha thứ được. Hộ không bao giờ thiết lập một tiêu chuẩn sống cụ thể: 'Người mạnh mẽ là người giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình'. Hộ không thể lựa chọn giữa hai con đường: hy sinh nghệ thuật để trở thành một người chồng, người cha tốt, hoặc hy sinh phần con người để bảo vệ cái đẹp tinh thần của nghệ thuật, trở thành một con người tàn nhẫn, không có trách nhiệm. Cả hai trách nhiệm đều được Hộ nhận thức rất sâu.
Hộ không có quyền, cũng không thể chọn một trong hai. Tấn bi kịch thường xuyên đối diện của Hộ nằm ở đây. Trên cả hai mặt trách nhiệm, Hộ luôn cảm thấy mình làm tệ nhất. Do đó, Hộ luôn tự trách bản thân, tự mắng mình. Tấn bi kịch đó trở thành một vết thương ẩn sau trong tâm hồn của Hộ, đôi khi bộc lộ ra. Trong những lúc say rượu, Hộ đã chọn một con đường, đã mong muốn tìm kiếm một sự giải thoát cực đoan nhất. Nhưng khi tỉnh lại, tình hình vẫn không thay đổi, và sự trói buộc vẫn cứ tồn tại, thậm chí còn trở nên nặng nề và đau đớn hơn.
Đời thừa kết thúc bằng một lần tỉnh rượu của Hộ sau một cơn say (có lẽ đã bao lần như vậy?), Hộ khóc trước cảnh Từ nằm gầy guộc, mệt mỏi, trong vòng tay yếu ớt của Từ. Cả hai đều khóc. Hộ khóc vì hối hận về sự thô lỗ, cục mịch với Từ. Nhưng lý do chính, có lẽ Hộ cũng khóc vì nỗi đau của bản thân, vì sự thất bại của cuộc sống, vì sự vỡ vụn của ước mơ tốt đẹp và cao quý nhất của mình. Rồi cả Từ nữa, Từ cũng khóc vì cô nhận ra điều đó mơ hồ.
Đời thừa có phải là bi kịch vĩ đại của người trí thức mãi mãi? Liệu họ có thể sống với ước mơ cao cả và vẫn giữ được bản ngã tốt đẹp không? Tất nhiên. Vậy thì, nguyên nhân của bi kịch trong cuộc đời của Hộ là gì? Đó là sự bế tắc và hẹp hòi trong cuộc sống. Xã hội đã khép kín một vòng lẩn quẩn quanh số phận của người trí thức nghèo trong xã hội cũ, đặc biệt là trong xã hội Việt Nam thời kỳ 1930-1945.
Trong Đời thừa, Nam Cao đã vẽ nên một bức tranh thực tế, đồng thời cũng gửi đi một thông điệp. Người có thể sống mà không cảm thấy đời mình như một sự lãng phí; không cảm thấy cuộc sống như một sự tàn phá, một sự chết chóc. Để làm được điều đó, họ cần phải đẩy lùi mọi rào cản, mọi bế tắc của cuộc sống. Cuộc cách mạng tháng Tám đã thực hiện công việc đó.