![](https://img.tripi.vn/cdn-cgi/image/width=700,height=700/https://gcs.tripi.vn/public-tripi/tripi-feed/img/478104bub/anh-mo-ta.png)
![](https://img.tripi.vn/cdn-cgi/image/width=700,height=700/https://gcs.tripi.vn/public-tripi/tripi-feed/img/478104wUk/anh-mo-ta.png)
Dân ca Quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay với dòng sông Cầu chảy qua được gọi là 'dòng sông quan họ'.
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp thứ tư của Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 2009), Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.
Cội nguồn
Ý nghĩa của từ 'Quan họ' thường được tách thành hai từ rồi phân tích nghĩa đen của 'quan' và 'họ'. Điều này dẫn đến giả thuyết về 'Quan họ' xuất phát từ 'âm nhạc cung đình', hoặc từ câu chuyện một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã bị quyến rũ bởi tiếng hát của liền anh liền chị và đã dừng lại để thưởng thức ('họ'). Tuy nhiên, cách giải thích này bỏ qua các yếu tố không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt, nghi thức các phường kết họ, diễn xướng, tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nghĩa và thanh điệu trong văn hóa đối đáp dân gian.
Một số quan điểm cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân gian mang yếu tố phồn thực, chứ không phải từ âm nhạc cung đình, hoặc cho rằng diễn tiến của văn hóa 'chơi Quan họ' xuất phát từ nghi lễ tôn giáo dân gian, qua cung đình rồi trở lại với dân gian.
Nhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa trong các làn điệu và không gian diễn xướng cho rằng Quan họ là 'quan hệ' của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.
Tuy nhiên, đa số các học giả chưa chấp nhận quan điểm nào. Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên giữa 'liền anh' và 'liền chị' mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn mới là hát đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể dựa trên nội dung các câu hát đã chuẩn bị trước hoặc ứng biến theo tình huống.
Quan họ xưa
Quan họ xưa không chỉ tồn tại ở 49 làng Quan họ gốc của xứ Kinh Bắc. Quan họ truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian của người Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt yêu cầu liền anh, liền chị phải hiểu rõ và tuân thủ. Điều này giải thích tại sao người Kinh Bắc thích 'chơi Quan họ', chứ không chỉ đơn thuần là 'hát Quan họ'. Quan họ xưa không có nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi giữa liền anh và liền chị trong các dịp lễ hội. Trong quan họ xưa, hát hội và hát canh là hình thức đối đáp giữa các đôi liền anh và liền chị; còn hát chúc, hát mừng, hát thờ là hình thức đối đáp cả nhóm.
'Chơi quan họ' xưa không có khán giả, người hát cũng chính là người thưởng thức (thưởng thức 'cái tình' của bạn hát). Nhiều bài quan họ xưa vẫn được liền anh, liền chị yêu thích cho đến ngày nay như: Vốn liếng em có 30 đồng, Mời nước mời trầu, Ngồi tựa song đào, Cây trúc xinh, Người ở đừng về, Xe chỉ luồn kim,...
Quan họ hiện đại
Quan họ hiện đại, hay còn gọi là 'hát Quan họ lời mới', là hình thức biểu diễn chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sự kiện cộng đồng như Tết, lễ hội, du lịch, nhà hàng,... Thực tế, Quan họ hiện đại có thể biểu diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Các băng đĩa VCD, DVD về Quan họ ngày nay đều là hình thức biểu diễn trên sân khấu, với những bài quan họ cổ được cải biên. Quan họ hiện đại luôn có khán giả, và người hát giao lưu tình cảm với khán giả, không còn là tình cảm giữa những người hát với nhau. Quan họ hiện đại đã vượt ra khỏi không gian làng xã, vươn tới nhiều nơi và đến với nhiều khán giả trên thế giới.
Quan họ hiện đại có nhiều hình thức biểu diễn phong phú hơn so với quan họ truyền thống, bao gồm hát đơn, hát đôi, hát tốp, và cả hát kèm múa phụ họa... Quan họ hiện đại cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: tự phát và có chủ đích. Cải biên tự phát là khi thêm nhạc đệm vào các bài hát quan họ mà không có ý thức rõ ràng. Phần lớn các bài quan họ hiện đại thuộc loại này. Cải biên có chủ đích là những bài bản đã thay đổi cả nhạc và lời từ quan họ truyền thống. Ví dụ, bài 'Người ở đừng về' được cải biên từ làn điệu 'Chuông vàng gác cửa tam quan' (Xuân Tứ cải biên).
Quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức họ nhầm lẫn với quan họ truyền thống, như bài 'Sông Cầu nước chảy lơ thơ' do Mai Khanh viết lời mới từ làn điệu truyền thống 'Nhất quế nhị lan'. Quan họ hiện đại được ưa chuộng hơn quan họ truyền thống không chỉ vì không gian và các sinh hoạt cổ truyền đã thay đổi, mà còn vì hoạt động 'hát quan họ' ngày nay thường được chính quyền hỗ trợ để tuyên truyền, giới thiệu và quảng bá quan họ trên diện rộng.
Các làng Quan họ
Năm 2016, có 49 làng quan họ được đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Tỉnh Bắc Giang có 5 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ. Điều đặc biệt là phần lớn các làng quan họ thờ thánh Tam Giang, vị thánh gắn với dòng sông Cầu. Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại ở các huyện, thị xã, thành phố: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh (còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh); Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa (còn gọi là quan họ bờ bắc sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang).
Danh sách 44 làng Quan họ tồn tại và phân bố như sau:
- Thành phố Bắc Ninh có 31 làng: Cổ Mễ, Phúc Sơn, Thanh Sơn (phường Vũ Ninh); Viêm Xá (Diềm), Hữu Chấp (Chắp), Đẩu Hàn (Đô Hàn), Xuân Ái (Sói), Xuân Đồng (Đồng Mật), Xuân Viên (Vườn Xuân) (phường Hoà Long); Thượng Đồng (Lẫm), Đông Xá (Đặng), Thọ Ninh (Thụ) (phường Vạn An); Khúc Toại (Chọi), Trà Xuyên (Trà) (phường Khúc Xuyên); Châm Khê (Bùi), Điều Thôn (
- Huyện Tiên Du (Bắc Ninh) có 12 làng: Duệ Đông, Lũng Giang, Lũng Sơn (thị trấn Lim); Ngang Nội, Vân Khám (xã Hiên Vân); Bái Uyên (Bưởi), Hoài Trung (Bựu Giữa) (xã Liên Bão); Tam Tảo, Giới Tế (xã Phú Lâm); Đình Cả, Lộ Bao (xã Nội Duệ), Phúc Nghiêm (xã Phật Tích).
- Thị xã Việt Yên (Bắc Giang) có 05 làng: Hữu Nghi, Nội Ninh, Giá Sơn, Mai Vũ (phường Ninh Sơn), Sen Hồ (phường Nếnh).
- Thành phố Từ Sơn (Bắc Ninh) có 4 làng: Tam Sơn (phường Tam Sơn); Tiêu Sơn, Hồi Quan (phường Tương Giang); Vĩnh Kiều (phường Đồng Nguyên).
- Huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) có 3 làng: Xuân Thành và Ngọ Xá (xã Châu Minh), Vụ Nông (xã Bắc Lý).
- Huyện Yên Phong (Bắc Ninh) có 2 làng: Đông Mơi (Đông Mai) (xã Trung Nghĩa) và Làng Đông Yên (Đông Khang) (xã Đông Phong).
- Huyện Yên Dũng (Bắc Giang) có 2 làng: Yên Hà và Yên Thịnh (xã Yên Lư).
Do chậm trễ, trong danh sách ban đầu UNESCO công nhận chỉ có 49 làng Quan họ gồm: Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ, Hữu Chấp, Viêm Xá, Đẩu Hàn, Xuân Ái, Xuân Đồng, Xuân Viên, Thụ Ninh, Đặng Xá, Khúc Toại, Trà Xuyên, Ông Mơi, Đông Yên, Châm Khê, Đào Xá, Dương Ổ, Cổ Mễ, Phúc Sơn, Y Na, Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá, Yên Mẫn, Yên Thị Chung, Vệ An, Ỗ Xá, Xuân Ổ, Hòa Đình, Khả Lễ, Bồ Sơn, Duệ Đông, Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Đình Cả, Lộ Bao, Hoài Trung, Vân Khám, Bái Uyên, Ném Đoài, Đình Cả, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn, Tam Tảo.
Làn điệu
Quan họ là một thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi bài quan họ đều mang giai điệu riêng. Hiện nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ được ký âm. Những bài quan họ được giới thiệu chỉ là một phần nhỏ trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.
Một số làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, Gió mát trăng thanh, Tứ quý.
Trang phục
![](https://img.tripi.vn/cdn-cgi/image/width=700,height=700/https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/6c/B%E1%BB%99_trang_ph%E1%BB%A5c_quan_h%E1%BB%8D.jpg/250px-B%E1%BB%99_trang_ph%E1%BB%A5c_quan_h%E1%BB%8D.jpg)
![](https://img.tripi.vn/cdn-cgi/image/width=700,height=700/https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/c/cf/B%E1%BB%99_trang_ph%E1%BB%A5c_quan_h%E1%BB%8D_2.jpg/250px-B%E1%BB%99_trang_ph%E1%BB%A5c_quan_h%E1%BB%8D_2.jpg)
Trang phục quan họ bao gồm trang phục của liền anh và liền chị. Trong các lễ hội quan họ thường có các cuộc thi về trang phục.
Liền anh mặc áo dài năm thân, cổ đứng, lá sen, viền tà, gấu to, dài qua gối. Bên trong thường mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Áo dài ngoài thường màu đen, chất liệu lương, the, hoặc đoạn đen với người khá giả. Có người mặc áo kép, bên ngoài bằng lương, the hoặc đoạn, bên trong lụa mỏng xanh cốm, xanh lá mạ, vàng chanh. Quần của liền anh là quần trắng, ống rộng, dài tới mắt cá chân, chất liệu diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ thắt chặt cạp quần. Đầu đội khăn nhiễu hoặc khăn xếp. Xưa kia, đàn ông búi tó phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Nay cắt tóc, rẽ ngôi nên dùng khăn xếp bán sẵn. Cùng với quần áo, khăn xếp, dép, liền anh còn có nón chóp lá thường hoặc chóp dứa, quai lụa màu mỡ gà. Phụ kiện khác như ô đen, khăn tay, lược là 'xa xỉ phẩm' thời xưa. Khăn tay lụa hoặc vải trắng, gấp nếp gài trong vành khăn, thắt lưng hoặc túi.
Trang phục truyền thống của liền chị thường được gọi là 'áo mớ ba mớ bảy', có nghĩa là liền chị có thể mặc ba áo dài lồng lên nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng lên nhau (mớ bảy). Tuy nhiên, thực tế thì các liền chị thường mặc áo mớ ba. Trang phục cơ bản bao gồm yếm màu rực rỡ thường làm từ lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dành cho trung niên) và yếm cổ viền (dành cho thanh nữ). Bên ngoài yếm là chiếc áo cánh trắng, vàng hoặc ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, phối màu tương tự như bộ trang phục nam nhưng màu sắc rực rỡ hơn. Áo dài năm thân của nữ có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt phía trước. Chất liệu để may áo đẹp nhất thời xưa là lụa hoặc the. Áo dài ngoài thường có màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen hoặc màu cánh gián, trong khi áo dài bên trong thường nhuộm màu khác nhau như màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ thủy, màu vàng chanh, màu vàng cốm vv. Áo cánh bên trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà.
Yếm thường được nhuộm màu sắc như màu đỏ (gọi là yếm thắm trước đây), vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), màu hồ thủy (xanh biển)... Yếm lớn buông ra phía sau lưng áo và yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Bao của các cô gái quan họ xưa thường làm từ chất liệu sồi se, màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng bên trong rồi thắt gọn qua ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ khoảng 1/3 bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Tương tự như yếm, thắt lưng được làm từ lụa nhuộm các màu tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thủy. Thắt lưng cũng được buộc múi phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo nên những nếp hoa màu sắc phía trước người con gái.
Liền chị thường mặc váy sồi, váy lụa, đôi khi có người mặc cả váy trong và váy ngoài làm từ lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài làm từ the, lụa. Váy thường có màu đen. Người biết mặc váy tinh tế là không để váy lướt trước, không để váy quấn quanh người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước hơi lượt về hình chữ V xuống gần tới mũi bàn chân, phía sau hơi lượt lên chạm tầm đôi bướu ở phía gót chân.
Liền chị thường mang dép cong làm từ da trâu theo phương pháp thủ công; có một vòng tròn làm từ da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai giúp khi đi không bị rơi dép. Mũi dép uốn cong và người làm dép phải biết nén, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che giấu đầu các ngón chân. Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn buộc khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà kéo.
Văn hóa quan họ
Văn hoá quan họ còn là cách thể hiện tinh tế, kín đáo và mang ý nghĩa sâu sắc như khi mời khách bằng những nét hòa mình, mời chén rượu say tình, thấm đẫm lòng khi có người đến thăm nhà. Quan họ nâng chén mừng xuân, mừng hội, vui cỗ, vui bạn... rồi hát cùng nhau cho bao giao duyên trọn vẹn, cho tàn đêm dần trở nên sáng ngời, rồi những giai điệu chia ly đầy nuối tiếc trong câu hát 'Người ơi, người ở lại đừng về', tàn canh, chia tay mà lòng vẫn còn chút ân hận 'Người về tôi vẫn nuối tiếc, để nhớ, để thương như thế... Người về tôi chẳng dám nài, áo trong tôi mặc, áo ngoài người để làm dấu tin...'. Và rồi kết thúc bằng lời hứa 'Đến hẹn lại lên' trong mùa hội sắp tới.
Quan họ là cách dân gian Kinh Bắc ứng xử 'mỗi khi khách đến chơi nhà', không chỉ 'rót nước pha trà' mời khách, mà còn bằng những giai điệu tình nghĩa thâm sâu: 'Mỗi khi khách đến chơi nhà/ đốt than quạt nước pha trà mời người xơi/ trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người một chén cho tôi vui lòng'...
Quan họ là một dạng ca hát dân gian phong phú về âm nhạc. Quan họ được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng phương thức lưu truyền truyền miệng. Phương thức này đã giúp Quan họ trở thành một dạng ca hát có số lượng bài hát lớn với nhiều giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã khiến cho những bài hát Quan họ trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hoàn toàn so với nguyên bản. Nhiều giai điệu cổ đã hoàn toàn mất đi. Mặc dù việc thay đổi này cũng đã giúp cho Quan họ phát triển hơn, nhưng trong bối cảnh văn hóa phương Tây đang lan rộng vào Việt Nam, việc bảo tồn sự nguyên vẹn của Quan họ ở từng giai đoạn phát triển là vô cùng cấp thiết.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, Sở Văn hóa Hà Bắc đã tiến hành thu thập dữ liệu về Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các phiên bản đã được ghi âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân. Sau khi sàng lọc và chọn lọc, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Phạm Hồng Thao đã ghi âm thành bản nhạc, bổ sung thêm một số ký tự đặc trưng cho giai điệu Quan họ. Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được ghi âm, do các nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cẩn thận. Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Ninh và Bắc Giang đảm bảo việc lưu giữ những cuốn băng này bằng cách số hóa toàn bộ để bảo tồn lâu dài cho thế hệ mai sau, đồng thời là tài liệu văn hóa cần được bảo tồn để giữ gìn những làn điệu quan họ mãi mãi.
Sau khi UNESCO công nhận Dân ca Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa thế giới phi vật thể, tỉnh Bắc Giang đã phát triển Chương trình hành động để bảo tồn Dân ca Quan họ. Bắc Giang cam kết triển khai nghiên cứu, giới thiệu và quảng bá về Dân ca Quan họ Bắc sông Cầu. Tổ chức các hội thảo, xuất bản sách về các bài hát đối Quan họ và giới thiệu 18 làng quan họ Bắc sông Cầu ở Việt Yên.
Bắc Giang tập trung vào việc truyền dạy Dân ca Quan họ tại các làng xã, tổ chức liên hoan tiếng hát Quan họ thường xuyên. Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Giang đã mở hơn 60 lớp truyền dạy Dân ca Quan họ cho hơn 3.000 học viên. Đến năm 2016, huyện Việt Yên đã tổ chức 14 cuộc Liên hoan tiếng hát Quan họ.
Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh ra mắt vào ngày 20 tháng 1 năm 2013. Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã hoàn thành nhiệm vụ sưu tầm, nghiên cứu, gìn giữ và phát triển dân ca Quan họ. Bắc Ninh đã nhân lên thành 329 làng Quan họ mới và khôi phục dân ca Quan họ tại thôn Viêm Xá, xã Hòa Long.
Bắc Giang và Bắc Ninh đã khôi phục lại ẩm thực 'Mâm đan, bát đàn' trong các buổi ăn uống với người quan họ. Xây dựng phòng trưng bày văn hóa Quan họ và tăng cường tuyên truyền về dân ca Quan họ qua phương tiện truyền thông đại chúng.
Nhạc Quan họ
Bài hát về truyền thống quan họ
- Hành trình đầy màu sắc
- Thương nhớ nhau bằng tấm lòng thật
- Tơ hồng (do Nhất Sinh sáng tác)
Bài ca quan họ
- Ai về với quê hương
- Bạn tình ơi
- Mua bán rượu, dầu mỏ
- Cây bông đỏ nổi bật
- Cây trúc xấu
- Anh buông vạt áo em ra
- Chia ly hai nơi
- Chim sáo hót hay trên cây dầu
- Chuông vàng gác cửa Tam Quan
- Còn vương hồn duyên
- Con nhện giăng mùng
- Dọn dẹp quán bán hàng
- Duyên phận quan họ
- Tình duyên quan họ
- Em hát cho anh nghe
- Em là con gái Bắc Ninh
- Gọi đò Hiên Vân
- Gửi gắm tình quan họ
- Hoa thơm bay lượn
- Người Bắc, người Nam
- Khách đến chơi nhà
- Làng quan họ quê mình
- Lý cây đa
- Lý con sáo
- Chuyện tình giao duyên
- Lý tình tang (Đưa em về quê mẹ)
- Lúng túng lung lay (Lung lay lúng túng)
- Mời bạn đến uống nước, uống trà
- Mười nhớ
- Ngày xuân
- Ngồi nằm thuyền nghỉ ngơi
- Ngồi dưới đào bên nhau
- Nguyệt trên mái đình
- Người ngoan
- Người ơi, người ở lại đừng về
- Qua cầu gió bay
- Ra đứng cổng làng
- Se chỉ đường kim chỉ
- Tạm biệt ở đây
- Thỏa ước với lòng
- Thuyền mở lái chèo
- Tìm tôi một người
- Tình yêu ngọt ngào
- Trên rừng ba mươi sáu loài chim
- Gặp gỡ tương phùng
- Vào chùa