Loại | nhạc cụ dây dùng vĩ |
---|---|
Âm vực | |
D4 up to A7 |
Đàn nhị hay còn gọi là Đàn cò là một loại nhạc cụ thuộc bộ dây có sử dụng vĩ, được gọi là đàn nhị do nó có hai dây (tiếng Trung: 二胡; bính âm: èrhú; Hán Việt: nhị hồ). Nhạc cụ này có nguồn gốc từ Ấn Độ và khu vực Trung Á, được du nhập vào Trung Quốc từ thế kỷ I đến thế kỷ III sau Công Nguyên bởi người Hồ (tên gọi mà người Hán dùng để chỉ các dân tộc sống ở vùng biên giới tây bắc Trung Quốc và các quốc gia Trung Á) trong thời kỳ phồn thịnh của 'Con đường tơ lụa'. Đàn này đã xuất hiện ở Việt Nam khoảng từ thế kỷ X. Ngoài người Kinh, nhiều dân tộc thiểu số trên toàn cầu cũng sử dụng nhạc cụ này, như Thái Lan, Campuchia, Nhật Bản, Hàn Quốc,...
Mặc dù tên gọi 'đàn nhị' rất phổ biến, nhưng nhiều dân tộc ở Việt Nam còn có những tên gọi khác cho nhạc cụ này. Người Kinh thường gọi là líu hoặc nhị líu (để phân biệt với 'nhị chính'), người Mường gọi là 'Cò ke', trong khi người miền Nam thường gọi là Đờn cò. Hình dáng, kích thước và nguyên liệu chế tạo đàn nhị cũng có sự khác biệt đôi chút tùy thuộc vào tộc người sử dụng.
Cấu tạo
Loại đàn nhị phổ biến hiện nay có các bộ phận chính như sau:
- Bát nhị (hay còn gọi là ống nhị): là bộ phận tăng âm (bầu vang) rỗng bên trong, hình dạng giống hoa muống, được làm từ gỗ cứng. Bát nhị có hai đầu, một đầu được bịt bằng da rắn hoặc kỳ đà, đầu còn lại không được bịt. Ngựa đàn nằm ở giữa mặt da. Riêng đối với đàn nhị Trung Quốc, bát nhị thường có hình bát giác hoặc hình trụ, được làm từ gỗ, trước đây thường là ống tre tròn.
- Dọc nhị (hay còn gọi là cần nhị, cán nhị): có hình dáng thẳng đứng, phần đầu hơi nghiêng về phía sau, gốc được cắm xuyên qua lưng bát nhị, gần khu vực mặt da.
- Trục dây: cả hai trục trên và dưới đều được gắn xuyên qua đầu dọc nhị và nằm cùng hướng với bát nhị.
- Dây nhị: Trước đây, dây đàn được làm từ sợi tơ se, nhưng ngày nay chủ yếu sử dụng nilon hoặc kim loại. Dây kim loại cho âm thanh chuẩn hơn nhưng không êm dịu bằng dây tơ hay dây nilon. Dây đàn thường được chỉnh theo quãng 4 đúng, quãng 5 đúng, quãng 7 thứ... nhưng phổ biến nhất là quãng 5 đúng.
- Cử nhị (hay khuyết nhị): là một sợi dây tơ se dùng để neo 2 dây đàn lại gần dọc nhị, ngay bên dưới hai trục dây. Đôi khi, cử nhị cũng có thể là một khung áo buộc sát dọc nhị, trong đó hai dây đàn xỏ qua hai lỗ của khung này. Cử nhị giúp điều chỉnh cao độ âm thanh. Nếu kéo cử nhị xuống, 2 dây đàn sẽ ngắt quãng hơn, tạo ra âm thanh cao hơn; nếu đẩy cử nhị lên, 2 dây sẽ phát ra âm thanh trầm hơn do quãng dây dài hơn. Tuy nhiên, để lên dây, người ta còn phải vặn trục dây.
- Cung vĩ: được làm từ cành tre, cành mây hoặc gỗ, có gắn lông đuôi ngựa. Những sợi lông đuôi ngựa nằm giữa hai dây đàn để kéo đẩy, cọ xát vào dây đàn và tạo ra âm thanh. Do lông đuôi ngựa nối liền hai dây đàn, nên không thể tách rời cung vĩ khỏi thân đàn. Ở Trung Quốc vẫn có một số loại đàn nhị và hồ cầm với cung vĩ rời.
Chức năng
Đàn nhị có âm vực phong phú, trải dài hơn 2 quãng tám, âm thanh trong trẻo, sắc nét, và êm dịu, gần gũi với giọng hát cao (giọng kim). Để thay đổi âm sắc hoặc giảm độ vang, người chơi có thể dùng đầu gối trái để che một phần miệng loa của bát nhị (khi ngồi kéo đàn trên ghế) hoặc sử dụng ngón chân cái để chạm vào da của bát nhị (khi ngồi kéo đàn trên phản, ghế hay các vị trí khác). Qua những kỹ thuật này, âm thanh trở nên xa vắng, mơ hồ, u ám và lạnh lẽo, diễn tả tâm trạng sâu lắng, buồn bã,...
Sử dụng
Đàn nhị đóng vai trò quan trọng trong Hát Xẩm, là một phần không thể thiếu của nhạc phường bát âm, dàn nhã nhạc, ban nhạc chầu văn, tài tử và các dàn nhạc tổng hợp. Ngày nay, đôi khi nó cũng được sử dụng trong các dàn nhạc pop, rock hiện đại, C-pop, và kinh kịch,... để làm phong phú thêm sắc thái âm thanh.
Người chơi dùng tay trái giữ dọc theo thân đàn và bấm dây bằng lòng ngón tay hoặc đầu ngón tay, trong khi tay phải cầm cung vĩ để kéo đẩy tạo ra âm thanh.
Kỹ thuật chơi đàn rất đa dạng, bao gồm các phương pháp như vuốt dây, nhấn dây, láy âm, chuyền âm, cùng với các kỹ thuật sử dụng cung vĩ như liền, ngắt, rời và rung,...
Nhị chính
Dù được gọi là 'nhị chính', đây thực chất là một loại đàn phụ, một biến thể của nhị líu. Nhị chính còn được gọi là 'nhị một'. Nhạc cụ này có hình dạng tương tự như nhị líu nhưng kích thước lớn hơn. Nó cũng có hai dây, trong đó dây ngoài được làm bằng kim loại, thường là thép, với âm thanh cao, còn dây trong làm bằng tơ cho âm trầm. Vì không phải là nhạc cụ chính trong bộ dây của dàn nhạc dân tộc, nhị chính thường được sử dụng để hòa bè cho giai điệu chính khi viết hòa thanh hoán vị. Cách định âm khi lên dây cho nhị chính tương tự như nhị líu.
Tầm âm (âm vực) của đàn Nhị
Tác phẩm tiêu biểu của Đàn Nhị (Việt Nam)
- Bè Xuôi Về Bến - Tác giả Thế Dân
- Ước Vọng - Tác giả Thế Dân
- Kể Chuyện Ngày Mùa - Tác giả Thao Giang
- Dạ Khúc - Tác giả Bá Quế
Tác phẩm nổi bật của Đàn Nhị (Trung Quốc)
- Gợi nhớ về Thiểm Bắc
- Trại Mã (赛马)
- Ánh trăng trên nhị tuyền
Đào tạo đàn Nhị chuyên nghiệp tại Việt Nam
- Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam
- Học viện Âm nhạc Huế
- Nhạc viện TP. Hồ Chí Minh
- Trường Đại học Văn hóa nghệ thuật Quân Đội
- Các trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật tại các Tỉnh/Thành phố
Chú giải
Các nhạc cụ dân tộc Việt Nam | |
---|---|
Alal • Aráp • Bẳng bu • Bro • Cảnh • Chênh kial • Chiêng tre • Chul • Chũm chọe • Cồng chiêng • Cò ke • Đàn bầu • Đàn đá • Đao đao • Đàn đáy • Đàn hồ • Đàn môi • Đàn nhị • Đàn tam • Đàn tranh • Đàn tứ • Đàn tỳ bà • Đàn nguyệt • Đàn sến • Đing năm • Đinh đuk • Đing ktút • Đuk đik • Goong • Goong đe • Guitar phím lõm • Hơgơr prong • Kèn bầu • Kèn lá • Kềnh H'Mông • Khèn bè • Khinh khung • K'lông pút • Knăh ring • K’ny • M'linh • M’nhum • Mõ • Phách • Pi cổng • Pí đôi / Pí pặp • Pí lè • Pí một lao • Pí phướng • Pơ nưng yun • Púa • Rang leh • Rang rai • Sáo H'Mông • Sáo trúc • Sênh tiền • Song lang • Ta in • Ta lư • Ta pòl • Tiêu • Tính tẩu • Thanh la • Tol alao • Tông đing • Tơ đjếp • Tơ nốt • Tam thập lục • Trống cái • Trống cơm • Trống đế • Trống đồng • Trống Paranưng • T’rum • T'rưng • Tù và • Tỳ bà • Vang • |