Tổng dân số | |
---|---|
Người Mỹ Da Đỏ và Thổ dân Alaska (2010 Census Bureau) One race: 2.932.248 được đăng ký Kết hợp với một hoặc nhiều chủng tộc khác được liệt kê: 2.288.331 Toàn bộ: 5.220.579 ~ 1,6% trong tổng dân số Hoa Kỳ. | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Chủ yếu ở Tây Hoa Kỳ; cộng đồng nhỏ cũng tồn tại trong Đông Hoa Kỳ | |
Ngôn ngữ | |
Ngôn ngữ bản địa (kể cả tiếng Navajo, Tiếng Trung Alaska Yup'ik, tiếng Dakota, tiếng Sioux, Tiếng Tây Apache, Tiếng Keres, Tiếng Cherokee, Tiếng Choctaw, Tiếng Creek, Tiếng Kiowa, Tiếng Osage, Tiếng Zuni, Tiếng Ojibwe, Tiếng O'odham) Tiếng Anh, Tiếng Tây Ban Nha, Tiếng Pháp, Tiếng Nga | |
Tôn giáo | |
| |
Sắc tộc có liên quan | |
|
Dân tộc bản địa Hoa Kỳ (tiếng Anh: Indigenous Americans), còn được biết đến với các thuật ngữ người Mỹ da đỏ hoặc người Anh-điêng, là những cư dân gốc của lãnh thổ ngày nay được gọi là Hoa Kỳ. Hiện nay, có hơn 500 bộ tộc được công nhận liên bang tại Hoa Kỳ. Thuật ngữ này không bao gồm người bản địa Hawaii và một số dân tộc Alaska. Tổ tiên của người Mỹ bản địa hiện đại đã đến Hoa Kỳ từ cách đây ít nhất 15.000 năm trước, có thể là sớm hơn, từ châu Á qua cầu Beringia. Sau đó, đã phát triển một loạt các dân tộc, xã hội và văn hóa.
Dân tộc bản địa Mỹ đã chịu nhiều tác động từ sự thống trị châu Âu ở châu Mỹ, bắt đầu từ năm 1492, và dân số của họ giảm mạnh do dịch bệnh từ người châu Âu như bệnh đậu mùa, chiến tranh và nô lệ. Sau khi Hoa Kỳ ra đời, nhiều người Mỹ bản địa đã phải chịu những hậu quả của chiến tranh, bị diệt chủng và các hiệp ước bất bình đẳng, và họ tiếp tục chịu đựng các chính sách phân biệt đối xử cho đến thế kỷ 20. Từ những năm 1960, các phong trào tự trị và tự quyết của người Mỹ bản địa đã mang lại những thay đổi cho cuộc sống của họ, mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề đương thời mà họ phải đối mặt. Ngày nay, có hơn năm triệu người Mỹ bản xứ sống tại Hoa Kỳ.
Lịch sử
Thời kỳ trước Columbus
Hiện nay vẫn chưa rõ nguồn gốc của người Mĩ bản địa khi họ đến Châu Mỹ. Giới khoa học cho rằng họ có thể xuất phát từ lục địa Âu-Á và di cư qua cầu Beringia vào cuối thời kỳ băng hà, khoảng từ 10.000 đến 100.000 năm trước Công nguyên.
Lịch sử của người Mĩ bản địa tại Hoa Kỳ vào thời kỳ tiền Columbus vẫn còn nhiều bí ẩn. Do nền văn minh của họ lúc này chỉ ở mức đồ đá, không có bất kỳ hệ thống ngôn ngữ có chữ viết nào, nên nghiên cứu về họ phụ thuộc chủ yếu vào khảo cổ học.
Các học giả tin rằng người Paleo-Indians (người Anh điêng cổ đại) đầu tiên định cư tại Bắc Mỹ, Ngũ Đại Hồ và sông Mississippi khoảng 10.000 năm trước. Họ để lại những di chỉ như làng mạc và các bức vẽ trên đá, hang động để mô tả cuộc sống săn bắn của mình.
Hình thái xã hội
Xã hội của người Mĩ bản địa thời tiền Colombus vẫn duy trì hình thái bộ lạc. Các bộ lạc lớn như Blackfoot, Cheyenne, Dakota, Comanche,... chia thành các làng lớn để sinh sống. Các bộ lạc nhỏ hơn thường chỉ có vài ngôi làng, giúp họ quản lý tốt hơn vấn đề săn bắt và thu thập thực phẩm mà không cần phải cạnh tranh quá nhiều.
Khác với người Mĩ bản địa ở khu vực nam như Mexico và các nước Mỹ Latinh, người Mĩ bản địa ở Hoa Kỳ thời tiền Columbus chủ yếu sống bằng săn bắt và hái lượm chứ không phải nông nghiệp. Họ săn bắn bò rừng bison để cung cấp lương thực, trong khi những bộ lạc sống ở Bờ Tây Hoa Kỳ và Alaska, nơi không có bò rừng bison, thì chuyên đi bắt cá hồi.
Các bộ lạc sống ở vùng Đại Bình nguyên thường phải di chuyển theo đàn bò bison trong mùa di cư (trừ khi bị ép phải ở lại định cư vì mùa đông khắc nghiệt). Những bộ lạc như Hidatsa, Mandan, Pawnee, Omaha thường định cư dọc bờ sông Mississippi vào mùa xuân để trồng ngô và bí, nhưng lại phải chuyển sang sống du mục săn bắt bò bison vào mùa hè.
Bò bison
Đàn bò bison thường có số lượng vô cùng lớn đến mức các nhà thám hiểm châu Âu vào thế kỷ 16 còn phải choáng ngợp và miêu tả rằng 'Những đàn bò dày đặc khiến cho vùng Đại Bình nguyên trở nên u ám', 'Một đàn bò bison di cư có thể mất đến 3 ngày để băng qua sông Missouri', và 'Ước tính một đàn bò có thể lên đến 4 triệu con'.
Bò bison cung cấp gần như mọi thứ cho người Mĩ bản địa, từ lương thực, quần áo đến chỗ ở.
Thịt bò bison thường được chế biến thành chà bông hoặc thịt khô để bảo quản. Để làm chà bông bò bison, người ta dùng búa đá để giã thịt, sau đó phơi khô và trộn với mỡ bò trước khi đựng vào túi da bò bison. Người Mỹ bản địa chỉ ưa dùng thịt bò bison tươi vào những lúc thừa thịt (thường là mùa hè), nướng trên lửa trại và thưởng thức cùng nhau. Họ cũng cho rằng thịt bò bison cái ngon hơn thịt bò bison đực.
Ngoài lương thực, bò bison còn cung cấp da để làm áo choàng, găng tay, mũ, giày moccasin,... (Da bò bison mùa đông có lông dày) hoặc làm áo và túi xách (Da bò bison mùa xuân, hè và thu có lông ngắn). Da bò bison đực thường dai hơn da bò bison cái, có thể sử dụng để làm khiên khi phơi khô, còn da bò bison cái thì thích hợp để làm lều.
Xương bò bison có thể dùng làm công cụ. Gân bò bison được làm kim chỉ hoặc dây cung. Sừng bò bison có thể làm muỗng hoặc muôi. Dạ dày bò bison được sử dụng để làm túi chứa lương thực hoặc nước. Phân bò bison được làm nhiên liệu.
Mỗi khi đến mùa săn bắt, các bộ lạc lại nhộn nhịp hẳn lên. Đàn ông chuẩn bị cho săn bắt, trong khi đàn bà lo việc lột da, nấu nướng và bảo quản thịt bò.
Việc săn bắt bò bison thường không quá khó vì người Mỹ bản địa cho rằng chúng kém cả về trí thông minh lẫn tầm nhìn. Họ áp dụng nhiều phương pháp như quây đàn bò lại để bắt những con mạnh thoát ra ngoài, còn con yếu sẽ bị bắt bằng cung tên, hoặc dùng màn đồng bò nhảy vực, hoặc đốn tấm da bò để dụ đàn vào bãi quây để thuận tiện săn bắt, hoặc đốt rẫy, hoặc nhốt đàn bò vượt sông,...
Các người già và yếu thường không thể tham gia săn bắt bò bison, nhưng luôn có nhiều người mạnh khỏe sẵn lòng chia sẻ thịt bò bắt được với họ.
Dù số lượng bò bison vô số, các bộ lạc vẫn áp dụng nhiều quy định chặt chẽ trong việc săn bắt chúng. Không ai được phép săn bắt bò mà không có sự cho phép của tù trưởng, và cũng không được phép làm phiền đàn bò nếu không phải vì mục đích lấy thực phẩm. Những ai vi phạm sẽ bị phạt nghiêm trọng: quần áo và vũ khí bị tiêu hủy, bị lên án trước cộng đồng, hoặc bị đày đi.
Với những con bò bison nặng hàng trăm ký, người Mỹ bản địa thường phải mổ để cắt nhỏ thịt để dễ dàng vận chuyển bằng sức người hoặc bằng chó kéo.
Hệ thống dân chủ của bộ lạc
Mọi luật pháp, phán quyết và quyết định của bộ lạc sẽ được đưa ra bởi một hội đồng các lãnh đạo của bộ lạc. Tù trưởng không có quyền lực tối cao đối với bất kỳ ai khác; nhiệm vụ của tù trưởng là làm trọng tài và hòa giải giữa các bên. Hầu hết các vụ việc nhỏ sẽ được giải quyết thông qua thỏa thuận. Tuy nhiên, nếu vụ việc quá nghiêm trọng, hình phạt sẽ được quyết định bởi hội đồng các lãnh đạo, thường là bằng cách đền bù tài sản, trục xuất khỏi bộ tộc hoặc áp dụng án tử hình.
Văn hóa chiến tranh
Các vũ khí của người Mỹ bản địa thời tiền Columbus thường là gậy, giáo và cung tên. Họ sử dụng đá, gạch nai và gỗ làm nguyên liệu cho vũ khí. Cung thường có độ dài chỉ 0,9m và có thể mang đến 100 mũi tên dài 0,6m. Những cung thủ tinh thông có thể bắn đến 8 mũi tên cùng một lúc vào không trung.
Trước khi người da trắng xuất hiện, các bộ lạc người Mỹ bản địa thường chiến đấu với nhau để tranh giành đất đai và săn bắt bò bison. Bộ lạc Cheyenne là một trong những bộ lạc chiến đấu khốc liệt với Kiowa, Crow,... Không phải bộ lạc nào cũng hung hăng đến mức giết hại hoặc bắt làm nô lệ các bộ lạc khác. Người Mỹ bản địa sống theo lối du mục, không thích có nô lệ hay tù binh.
Các bé trai thường được huấn luyện từ nhỏ qua các trò chơi giả đánh và tham gia vào thực chiến khi đủ tuổi. Gia đình thường truyền lại vũ khí của ông bà cho con cháu. Người Mỹ bản địa thường dạy trẻ em về lòng dũng cảm trong chiến đấu là phẩm chất mà họ nên học theo.
Người Mỹ bản địa thường ưa thích chiến đấu tấn công hơn là phòng thủ, dẫn đến tình trạng hoảng loạn khi bị kẻ thù tấn công bất ngờ. Tính dân du mục của họ cũng khiến họ không muốn xây dựng các công trình để bảo vệ ngôi làng khỏi kẻ thù.
Người bản xứ Mỹ tôn vinh lòng dũng cảm trong trận chiến, và họ rất quan trọng đến các hành động dũng cảm. Để chứng minh việc tiêu diệt một kẻ thù, họ thường thực hiện việc lột da từ xác sống.
Tuy nhiên, để đánh giá chính xác, các bộ tộc thường tính điểm chiến công dựa trên số lần tấn công và loại vũ khí sử dụng. Đánh đối phương bằng gậy được coi trọng hơn dùng lao, đánh bằng lao lại được coi cao hơn dùng cung tên. Họ lập luận rằng việc tiêu diệt đối thủ từ xa cho thấy ít sự dũng cảm hơn.
Một số bộ tộc cũng quan trọng việc hỗ trợ nhau trong việc đánh bại kẻ thù, và chiến công của cả nhóm sẽ được ghi nhận bởi các đồng đội khác trên chiến trường. Nhưng chỉ những người tiêu diệt đối thủ khi còn sống mới được tính là chiến công cao nhất. Những người chỉ lột da đầu sẽ xếp sau.
Không phải lúc nào tiêu diệt nhiều kẻ thù cũng là sự dũng cảm. Một số bộ tộc cho rằng việc bảo vệ đồng đội hoặc tự mình bị thương cũng là một chiến công.
Sau khi xác nhận chiến công, người bản xứ Mỹ có nhiều cách để trưng bày 'huân chương' của họ. Họ có thể vẽ những chiến công trên lều trại, khiên hay trang phục, hoặc sử dụng lông chim làm nơ lông vũ hoặc dùng da đầu. Một số bộ tộc buộc đuôi sói vào giày Moccasin để biểu thị chiến công của mình.
Ngôn ngữ của người Mĩ bản địa
Đa dạng về địa lý đã tạo ra hệ ngôn ngữ phức tạp với hơn 300 ngôn ngữ khác nhau, trong đó có nhiều ngôn ngữ độc lập.
Người Mĩ bản địa không có chữ viết, họ sử dụng các chữ cái hình vẽ để biểu đạt ý nghĩa của từng từ.
Khác với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ cử chỉ phổ biến hơn trong cộng đồng người Mĩ bản địa và có tính thống nhất cao.
Đức tin và tôn giáo
Đa số bộ lạc bản địa Mỹ tin rằng linh hồn hiện diện khắp mọi nơi và trong mọi vật thể. Họ cho rằng linh hồn cổ xưa có thể liên kết qua các dấu hiệu trong giấc mơ. Những dấu hiệu này quyết định số phận cuộc sống của họ. Một chiến binh có quyền từ chối tham chiến nếu thấy dấu hiệu xấu trong giấc mơ của mình.
Bên cạnh đó, người bản địa Mỹ còn có nghi lễ gọi là Vũ điệu Mặt Trời, khác biệt hoàn toàn so với các nghi lễ vũ điệu Mặt Trời hiện đại. Vũ điệu Mặt Trời cổ xưa thường do các nhân vật quan trọng trong bộ lạc biểu diễn, họ nhảy suốt nhiều ngày cho đến khi kiệt sức và ngất xỉu, trong thời gian bất tỉnh này, họ mơ thấy các dấu hiệu quan trọng cho số mạng bộ lạc.