Người Hán là nhóm dân tộc lớn nhất ở Trung Quốc, chiếm khoảng 92% dân số đại lục. Người Hán cũng chiếm khoảng 95% dân số Đài Loan, 92% dân số Hồng Kông, 89% dân số Ma Cao và 74% dân số Singapore.
Họ cũng là nhóm dân tộc lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 18% dân số toàn cầu.
Ngoài Trung Quốc, thuật ngữ 'người Hán' và 'người Trung Quốc' thường bị nhầm lẫn vì những người được xác định là người Hán là nhóm dân tộc đông dân nhất ở Trung Quốc. Thực tế, có 55 dân tộc thiểu số được công nhận chính thức ở Trung Quốc cũng có thể được gọi là 'người Trung Quốc'.
Mặc dù Hồng Kông và Ma Cao đều thuộc chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc đại lục), cả hai khu vực đều có mức độ tự trị cao. Hồng Kông và Ma Cao lần lượt được điều chỉnh bởi các hiệp định quốc tế gọi là 'Tuyên bố chung Trung-Anh' và 'Tuyên bố chung Trung-Bồ Đào Nha'. Người dân ở cả hai khu vực có thể sở hữu nhiều quốc tịch.
Những người từ Đài Loan, chính thức là Cộng hòa Trung Hoa (ROC), cũng có thể được gọi là 'người Trung Quốc' trong nhiều bối cảnh khác nhau, mặc dù thường được gọi là 'người Đài Loan'. Lãnh thổ của Đài Loan đang trong tình trạng tranh chấp và Chính phủ ROC đã giới hạn phạm vi chủ quyền pháp lý của mình.
Ngoài ra, còn có một cộng đồng người Hoa di cư rộng rãi được gọi là Hoa kiều.
Các nhóm dân tộc ở Trung Quốc và các vùng lãnh thổ tương quan.


Một số nhóm dân tộc ở Trung Quốc, cũng như những người ở nơi khác có tổ tiên trong khu vực, có thể được gọi là người Trung Quốc.
Nhóm dân tộc ở Trung Quốc
Người Hán, nhóm dân tộc lớn nhất ở Trung Quốc, thường được gọi là 'người Trung Quốc' hoặc 'Trung Quốc bản địa'. Người Hán cũng chiếm đa số hoặc thiểu số đáng chú ý ở các quốc gia khác, và họ chiếm khoảng 18% dân số toàn cầu.
Các nhóm dân tộc khác ở Trung Quốc bao gồm người Tráng, Hồi, Mãn, Duy Ngô Nhĩ và người Miêu, tạo thành năm dân tộc thiểu số lớn nhất ở Trung Quốc đại lục, với dân số từ khoảng 10 triệu người trở lên. Ngoài ra, người Lô Lô, Thổ Gia, Tây Tạng và Mông Cổ mỗi dân tộc có dân số từ năm đến mười triệu.
Trung Quốc, tên chính thức là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, công nhận 56 dân tộc bản địa. Cũng có một số nhóm dân tộc không được công nhận ở Trung Quốc.
Trong triều đại nhà Thanh, thuật ngữ 'người Trung Quốc' được chính quyền sử dụng để chỉ tất cả các đối tượng bản địa truyền thống của đế chế, bao gồm Hán, Mãn và Mông Cổ.
Dân tộc Trung Hoa (giản thể: 中华民族; phồn thể: 中華民族; bính âm: Zhōnghuá Mínzú) là một khái niệm siêu dân tộc bao gồm tất cả 56 dân tộc sống ở Trung Quốc được chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận. Khái niệm này bao gồm các nhóm dân tộc đã sống trong biên giới của Trung Quốc kể từ ít nhất là đời nhà Thanh (1636-1912). Thuật ngữ dân tộc Trung Hoa được sử dụng trong thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1912-1949 để chỉ một nhóm nhỏ gồm năm dân tộc ở Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc (tiếng Trung: 中国人民; bính âm: Zhōngguó rénmín) là thuật ngữ ưa thích của chính phủ trong thời kỳ Mao Trạch Đông; dân tộc Trung Hoa phổ biến hơn trong những thập kỷ gần đây.
Các dân tộc ở Đài Loan
Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc (ROC), công nhận 17 dân tộc Đài Loan bản địa cũng như nhiều nhóm dân tộc nhập cư mới khác (hầu hết có nguồn gốc từ Trung Quốc và Đông Nam Á). Trong số 17 dân tộc Đài Loan bản địa, 16 dân tộc được coi là người bản địa (người bản địa Đài Loan), trong khi một dân tộc được coi là dân thuộc địa (người Đài Loan). Ngoài ra còn có một số nhóm dân tộc bản địa không được công nhận ở Đài Loan.
Người Hán Đài Loan, người Hán sống ở Đài Loan, thường được chính phủ Đài Loan phân loại thành ba nhóm dân tộc chính; Hoklos Đài Loan, Khách Gia Đài Loan và Đại lục (Đài Loan) (nghĩa là 'Người Trung Quốc đại lục ở Đài Loan'). Người Kim môn và người Mã Tổ là hai dân tộc Hán Đài Loan khác.
Cả người Hoklos và Khách Gia đều được coi là dân số bản địa của Đài Loan kể từ khi họ bắt đầu di cư đến Đài Loan từ Trung Quốc đại lục (chủ yếu từ Phúc Kiến và Quảng Đông) hơn 400 năm trước. Chúng thường được gọi chung trong tiếng Quan thoại của Đài Loan là 'bản tỉnh nhân' (có nghĩa là 'người từ tỉnh này'). Người Hoklos chiếm khoảng 70% tổng dân số Đài Loan và người Khách Gia chiếm khoảng 14% tổng dân số Đài Loan.
Người Đại lục (Đài Loan) hầu hết là người di cư từ Trung Quốc đại lục sang Đài Loan trong những năm 1940 và 1950, thường trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai và Nội chiến Trung Quốc. Họ thường được gọi là 'ngoại tỉnh nhân' trong tiếng Quan thoại của Đài Loan. Người Đại lục (Đài Loan) chiếm khoảng 14% tổng dân số Đài Loan.
Nói chung, các dân tộc bản địa Đài Loan còn lại chiếm khoảng 2% tổng dân số Đài Loan. Các dân tộc bản địa Đài Loan được cho là đã sinh sống ở Đài Loan từ 6000 năm trước khi Đài Loan thuộc địa Trung Quốc từ thế kỷ 17.
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, người Trung Quốc còn được gọi là người Hoa hoặc người Tàu. Theo lịch sử, vào thời kỳ quân Nam Minh thất bại trước nhà Thanh, một số người theo nhà Minh đã chạy khỏi Trung Quốc (phong trào Phản Thanh phục Minh) và được chúa Nguyễn chấp nhận cho tỵ nạn ở miền Nam Việt Nam. Quan quân nhà Minh cùng gia quyến di chuyển qua Việt Nam bằng tàu, nên dân gian gọi họ là người Tàu. Tên gọi Minh Hương được dùng để chỉ người Hoa đến Việt Nam từ thời nhà Minh. Ngoài ra, từ tàu cũng là phương tiện mà người Trung Quốc thường sử dụng khi đến làm ăn, buôn bán và định cư ở Việt Nam, nên nó đã được dùng làm tên gọi.
Một số người dùng từ chú Khách hoặc người Khách để chỉ người Trung Quốc, nhưng thực tế không chính xác vì đây chỉ là một dân tộc ở Trung Quốc (xem người Khách Gia). Từ 'chú Khách' thực ra có nguồn gốc từ 'khách trú'.
Phần lớn người Hoa ở Việt Nam và trên toàn cầu là người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ (Khách Gia), Hải Nam. Người Triều Châu và Hẹ thường có quê gốc ở miền Đông Quảng Đông; người Triều Châu chủ yếu sinh sống ở vùng Đông Nam Quảng Đông như Triều Châu và Sán Đầu, nên họ cũng được gọi là người Triều Sán. Dù sinh sống tại Quảng Đông, người Triều Châu sử dụng phương ngữ Mân Nam (Amoy hay Hokkienese) của Phúc Kiến thay vì phương ngữ Quảng Đông (Cantonese).
Người Hẹ ở nước ngoài, gốc của họ nằm ở nội hạt Đông Bắc Quảng Đông. Phương ngữ của người Hẹ không thuộc hệ thống phương ngữ Quảng Đông mà gần giống với phương ngữ Cán tỉnh Giang Tây. Người Hẹ hải ngoại chủ yếu đến từ Mai Huyện, Đại Bộ, Hưng Ninh, Tử Kim, Huệ Dương và một số ít từ Đông Hoàn Quảng Đông.
Người Hoa ở Việt Nam hiện nay chia thành hai nhóm. Nhóm đầu tiên đến Việt Nam từ miền Nam khoảng 300 năm trước, từ thời Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch, Mạc Cửu, chủ yếu sinh sống tại các tỉnh miền Nam ngày nay. Nhóm còn lại đến Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, khi Việt Nam là thuộc địa Pháp, chủ yếu sinh sống tại Chợ Lớn. Giống như người Hoa ở các quốc gia khác, người Hoa ở Việt Nam tập trung vào thương mại và thường rất thành đạt trong lĩnh vực này.
- Người Hoa