Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận khổ cuối bài thơ Nhớ rừng gồm 3 bài văn mẫu, kèm dàn ý chi tiết. Giúp học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn nỗi bất bình, niềm khao khát tự do của nhân vật chúa sơn lâm trước thực tại tù túng, ngột ngạt.
Thế Lữ, qua bài thơ Nhớ rừng, sử dụng hình ảnh con hổ để diễn đạt tâm trạng của người dân Việt Nam thời điểm đó. Khát vọng tự do mãnh liệt được thể hiện sâu sắc, mời bạn đọc tìm hiểu sâu hơn.
Đề bài: Cảm nhận về khổ thơ cuối của bài thơ Nhớ rừng của nhà thơ Thế Lữ .
Dàn ý Cảm nhận về phần kết của bài thơ Nhớ rừng
1. Bắt đầu
- Giới thiệu về tác giả Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng.
- Giới thiệu phần kết của bài thơ.
2. Nội dung chính
a. Tâm trạng của con hổ:
- 'Lạy oai linh, vẻ đẹp của non sông to lớn/Là nơi chốn thiêng liêng chúng ta cai trị':
- Sự khao khát tự do mãnh liệt đang nổi lên trong con hổ, khát khao chỉ muốn trở về với nơi đại ngàn bao la, với tiếng gọi tràn đầy niềm hy vọng và vĩ đại.
- Từ 'lạy' được đặt ở đầu câu thơ để tôn vinh sự oai linh của chúa sơn lâm, thể hiện tư thế kiêu hãnh, uy nghi của một vị vua.
- 'Là nơi chốn thiêng liêng chúng ta cai trị': Khẳng định quyền lực của con hổ đối với núi rừng, khẳng định ẩn dụ về quyền tự chủ của dân tộc Việt Nam, dù hiện tại cả con hổ và dân tộc đều bị gò bó bởi những gông xiềng nặng nề, khó có thể thay đổi.
- 'Nơi mà chúng ta đã từng trải qua những ngày vui vẻ/Nơi mà chúng ta không còn được chứng kiến bao giờ!':
- Con hổ phải quay về với một thực tại đau đớn, đang lẫn trong dòng chảy cảm xúc u uất.
- Từ 'Nơi' làm tăng cường thêm cảm xúc và nỗi tiếc nuối của nhân vật chính, sự mất mát với những kỷ niệm đẹp, cảm giác tiếc nuối đầy vô lực.
- Giọng thơ chuyển từ một tiếng thét bi tráng đến đây đã dần trầm xuống, mang lại cảm giác đau thương và vô lực.
- 'Liệu có ai biết rằng trong những ngày chúng ta buồn chán/Chúng ta đang theo đuổi giấc mộng vĩ đại đến thế nào!':
- Khát khao, nhớ thương sự tự do không chỉ tồn tại khi ta tỉnh mơ mà còn theo ta trong những giấc mơ, luôn mang theo 'giấc mơ vĩ đại', không bao giờ bỏ lại.
- Con hổ không bao giờ chịu khuất phục trước số phận, luôn tràn đầy khao khát tự do mãnh liệt, niềm hi vọng vào một tương lai rạng ngời, quyết tâm theo đuổi những ước mơ riêng của mình, không chịu chấp nhận sự tầm thường, giả dối.
=> Con hổ chọn lựa giải pháp để thoát khỏi cảnh chán chường thực tại, là chìm đắm trong những giấc mơ vĩ đại của núi rừng để giữ lấy vẻ oai vệ, những giá trị cao cả, thoát ra khỏi những đau thương, khó khăn và tuyệt vọng trước thực tại.
b. Ý nghĩa, nội dung tư tưởng:
- Tâm trạng của con hổ là biểu tượng cho hồn thơ của Thế Lữ, những người trí thức nhỏ lẻ cùng thời phải đối mặt với một thực tại đau đớn: mất nước, mất chủ quyền dân tộc, lâm vào tình trạng bế tắc trước khi được hiểu biết về cách mạng.
=> Thoả mãn trong thơ ca, khát khao tiến tới những điều tốt đẹp, xa xôi, đầy ước mơ, thoát ra khỏi cuộc sống phiền toái, với những khổ đau và sự chán nản.
- Hiện thân khổ cảnh chung của dân tộc Việt Nam, cái hiện thực tầm thường, giả dối ở đây là thị trường quân sự, quyền lợi đặc quyền của thực dân Pháp. Dân ta trở thành con hổ bị nhốt trong chuồng, bị kìm hãm mọi phương diện, phải chịu sự nhục nhã, đau đớn và bế tắc nhưng vẫn luôn khao khát mãnh liệt một cuộc sống tự do. Vẫn nhớ mãi, nuối tiếc mãi cảnh đất nước bình yên, xinh đẹp thuở xưa.
3. Kết bài
Nêu cảm nhận chung.
Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 1
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Nhà thơ thể hiện thành công tinh thần bất bình sâu sắc và khao khát tự do mãnh liệt của dân tộc Việt Nam trước thực tại khốn khổ, ngột ngạt. Bút pháp sắc nét của Thế Lữ đã đạt đến đỉnh cao. Trong tình trạng bị giam cầm, con hổ chỉ muốn trốn về nơi nước non hùng vĩ, nơi mà giống hầm thiêng từng thống trị từ ngàn xưa. Đau buồn với hiện tại nhưng không thể thoát ra khỏi xích xiềng nô lệ của chúa tể sơn lâm một thời uy vũ giờ phải chấp nhận, tự an ủi bằng những ước mơ to lớn trong quãng đời đau khổ còn lại. Một nỗi buồn sâu thẳm tận đáy lòng. Ôi! Quá khứ hùng mạnh đã xa xưa giờ chỉ còn hiện lên trong giấc mơ! Từ đáy lòng, chúa tể rừng xanh than thở: Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của dân tộc Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ bị nhục nhã, bị kìm hãm, cũng đầy căm hận và tiếc nuối về những thời kỳ oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử. Bởi vì động vào chỗ sâu xa nhất trong lòng người nên bài thơ ra đời đã được đón nhận nồng nhiệt từ công chúng.
Tác giả sử dụng lời của con hổ bị giam cầm trong lồng sắt để diễn đạt một cách toàn diện, sâu sắc tình trạng u uất của thế hệ thanh niên trí thức Tây học mới tỉnh ngộ ý thức cá nhân, vô cùng bất mãn và khinh ghét hiện thực bất công, ngột ngạt của xã hội hiện tại. Họ muốn phá vỡ xiềng xích nô lệ để 'cá nhân' tự do được khẳng định và phát triển. Nhiều người đọc bài thơ Nhớ rừng, cảm thấy tác giả đã nói lên giùm họ nỗi đau của thân phận nô lệ. Một cách nào đó, có thể coi đây là một bài thơ yêu nước, tiếp nối truyền thống thơ trữ tình yêu nước trong văn chương hợp pháp của thế kỷ XX đầu.
Thế Lữ đã chọn một hình ảnh đặc biệt, phù hợp với việc thể hiện chủ đề của bài thơ. Con vật oai vệ được coi là chúa tể của rừng sâu, một thời vinh quang, hùng vĩ ở nơi nước non hùng vĩ giờ đây bị giam cầm, bị hãm hại tượng trưng cho người anh hùng chiến thắng. Cảnh đại ngàn hoang vu tượng trưng cho thế giới tự do rộng lớn. Với hình ảnh chứa đựng ý nghĩa sâu xa ấy, Thế Lữ đã thành công trong việc truyền đạt tâm sự của mình qua bài thơ. Ngôn ngữ thơ đạt tới mức cao nhất, tinh tế, nhạc điệu du dương, lúc hùng tráng phất lên, lúc u buồn cảm xúc, thể hiện thành công nội dung tư tưởng của bài thơ.
Bài thơ đong đầy cảm hứng lãng mạn, tinh thần sáng tạo dâng trào dưới nét bút của thi nhân. Điều này là điển hình của bút pháp lãng mạn và cũng là yếu tố chính quyết định sức mạnh hút của bài thơ. Bài thơ Nhớ rừng vẫn đọng lại trong lòng người đọc. Khi nhắc đến Thế Lữ, người ta nhớ đến Nhớ rừng. Là một nhà thơ, chỉ cần điều đó đã làm họ hạnh phúc, mãn nguyện.
Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Nhớ rừng - Mẫu 2
Thế Lữ (1907-1989) là một nhà văn, nhà báo, nhà phê bình, nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng với nhiều đóng góp cho văn học hiện đại của Việt Nam. Ông nổi tiếng từ những năm 1930 với những tác phẩm thơ Mới, mở đường cho một thể loại thơ phương Tây, được ảnh hưởng bởi văn học Pháp. Mặc dù không nổi bật như một số nhà thơ khác trong phong trào Mới, nhưng tác phẩm của ông cũng có giá trị, thể hiện tinh thần đổi mới và khát vọng giải thoát khỏi bế tắc xã hội. Phong cách thơ của Thế Lữ được thể hiện rõ trong bài thơ Nhớ rừng, với hình ảnh con hổ biểu tượng cho tâm trạng của người viết. Bài thơ này thành công trong việc diễn đạt tình cảm và ý nghĩa về khao khát tự do và lòng yêu nước.
Con hổ trong bài thơ Nhớ rừng là biểu tượng của khao khát tự do và lòng yêu nước. Hình ảnh này thể hiện tâm trạng của người viết, mong muốn tự do nhưng lại bị gò bó, mất tự do trong một thực tại đầy bế tắc và giả dối. Vườn bách thú ở đây tượng trưng cho đất nước bị thực dân Pháp và chế độ phong kiến áp bức. Trải qua những khổ thơ, người viết thể hiện sự ghê tởm với thực tại nhưng cũng không quên những kỷ niệm yêu thương với quê hương.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Từ những dòng thơ, ta hiểu rõ được lòng khao khát tự do mãnh liệt đang nhen nhóm trong con hổ, mong muốn hướng về đại ngàn mênh mông với tiếng gọi tha thiết 'Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ'. 'Hỡi' ở đầu câu thơ vang lên như tiếng thét oai hùng của chúa sơn lâm, tư thế cao quý, phong thái cai trị vững vàng như vua chúa. Con hổ khẳng định quyền tự do và chủ quyền của mình với núi rừng 'Là chốn hầm thiêng ta ngự trị', nhưng đồng thời cũng gợi lên nỗi xót xa khi nhận ra rằng 'Nơi ta không còn được thấy bao giờ!'. Hình ảnh núi rừng đại ngàn đã từng là nơi chúa sơn lâm trị vì, thênh thang vẫy vùng, nhưng giờ đây chỉ còn lại trong ký ức đẹp một thời. Dù vậy, lòng khao khát tự do vẫn luôn sống mãi trong con hổ, không bao giờ khuất phục trước số phận.
Nhớ rừng là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong trào thơ Mới giai đoạn khởi đầu, là lá cờ tiên phong mở đường cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam, thoát khỏi hẻm ngõ của thơ cổ, theo lối mòn cứng nhắc. Bài thơ tập trung vào sự bế tắc của đất nước và con người Việt Nam trước cách mạng, chịu cảnh tù đày, nô lệ đầy nhục nhã, luôn đau đớn hối tiếc về những ngày tháng tự do, tốt đẹp của quá khứ, nhưng nhân dân ta chưa từng khuất phục, dù thực cảnh có bế tắc, họ vẫn luôn tìm cách giải phóng bản thân bằng niềm hy vọng, khao khát tự do mãnh liệt, chống chọi với những cái tầm thường, giả dối độc ác. Nhớ rừng không chỉ là sự theo đuổi cái Đẹp, mộng tưởng thoát ly của Thế Lữ mà còn thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc và nỗi đau đớn, bất lực trước thời cuộc rối ren.
Cảm nhận về khổ 5 bài thơ Nhớ rừng
Bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ đã sử dụng lời của con hổ trong vườn bách thú để diễn đạt tâm trạng thầm kín của mình. Hai cảnh tượng đối lập trong bài thơ, con hổ trong vườn bách thú và con hổ trong rừng, đều thể hiện sự bi kịch của vị chúa sơn lâm. Tuy nhiên, nỗi lòng chua xót nhất của vị chúa sơn lâm được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ cuối cùng.
Với ngôn từ đầy chất thơ, nhà thơ đã tỏ bày nỗi niềm của vị chúa tể rừng bị sa cơ thất thế trong khổ thơ cuối cùng:
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!…
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
Mỗi từ, mỗi câu trong đoạn thơ gợi lên một cảm xúc sâu sắc, biểu hiện rõ nỗi bất mãn và mong muốn tự do mãnh liệt của con hổ trước thực tại giam cầm. Bút pháp tài tình của nhà thơ khiến cho con hổ trở nên sống động như một con người thực sự. Trong tình cảnh khó khăn, con hổ chỉ biết hướng tâm hồn về với núi rừng, về với vùng đất hùng vĩ, nơi từng là trái tim của loài hùm tài bá.
“Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị”
Tiếng khóc than gửi về núi rừng là lời tạm biệt cuối cùng, khẳng định một sự thật khắc nghiệt rằng nơi đây sẽ không còn là vùng đất mà con hổ có thể quay lại, nơi mà nó từng vùng vẫy, cảm thấy hạnh phúc. Đau đớn hơn cả khi bắt buộc con hổ phải xa rừng, phải xa sông.
“Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”
Mặc cho lòng căm phẫn với thực tại, nhưng con hổ không thể thoát khỏi xiềng xích giam cầm. Trong những ngày buồn tẻ, không biết mình làm gì, vị chúa tể rừng phải buông lỏng và tự an ủi mình, chỉ biết hồi tưởng về những giấc mơ lớn lao:
“Trong những ngày buồn tẻ, không biết mình làm gì,
Chúng ta đang theo đuổi những giấc mơ to lớn”
Nỗi buồn về thực tại đã làm tê tái tâm hồn, từ đáy lòng, con hổ thốt lên tiếng than ai oán: “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”. Có thể thấy, tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam, đặc biệt là các thanh niên trí thức yêu nước lúc bấy giờ. Chúng ta đang phải sống trong cảnh nô lệ, tù hãm, ôm trong lòng nỗi căm hờn mất nước, mất tự do và hoài niệm về thời oanh liệt của lịch sử nước nhà với biết bao chiến công chống giặc ngoại xâm lừng danh khắp cõi.
Tác giả Thế Lữ đã mượn lời của con hổ, nói lên một cách đầy đủ và sâu sắc nỗi u uất của thế hệ thanh niên trí thức Việt Nam đương thời. Đó là sự thức tỉnh trong ý thức cá nhân, đồng thời là niềm bất mãn, khinh ghét với thực tại nô lệ bất công. Đọc bài thơ và đặc biệt là khổ thơ cuối, ta cảm nhận được tiếng than và nỗi lòng của người dân đau khổ trong thân phận nô lệ, cũng như một khát vọng to lớn được trở về với quá khứ, được sống tự do và được là chính mình.