Đặc điểm nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân tập hợp 10 mẫu rất hay đi kèm với 3 gợi ý cách viết chi tiết. Tài liệu được biên soạn để giúp các học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức và kỹ năng viết văn ngày càng tiến bộ hơn.
Phân tích điểm độc đáo nghệ thuật của Người lái đò sông Đà cho chúng ta nhận biết rõ phong cách của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã thể hiện một số đặc điểm cơ bản như cảm hứng đặc biệt với các hiện tượng tác động mạnh mẽ lên giác quan của nghệ sĩ, tiếp cận con người ở khía cạnh tài hoa nghệ sĩ và sử dụng bút pháp một cách rất tự do. Dưới đây là 10 bài văn mẫu về điểm độc đáo nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà mời các bạn đọc. Ngoài ra, để nâng cao kỹ năng viết văn, các bạn có thể tham khảo thêm: phân tích cảnh vượt thác sông Đà và phân tích hình tượng người lái đò.
Dàn ý phân tích điểm đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
A. Giới thiệu
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Tuân là một trong những tác giả có phong cách độc đáo và hiếm có trong Văn học Việt Nam. Sử dụng sâu sắc kiến thức văn hóa và tài năng văn chương, ông đã tạo ra nhiều kiệt tác nghệ thuật đậm chất tài hoa và uyên bác, trong đó có tác phẩm “Người lái đò sông Đà” nổi tiếng.
C. Thân bài
Đặc điểm của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân
- Tùy bút trong Người lái đò Sông Đà thể hiện rõ các đặc điểm của phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
* Khám phá, khám phá sự vật từ góc độ văn hóa, thẩm mỹ: dòng sông Đà cuồn cuộn như mái tóc thơ mộng.
Tác giả đã mô tả Sông Đà bằng những so sánh, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị. Từ ngữ trong tùy bút rất phong phú, sống động, giàu hình ảnh và sức thu hút cao.
- Câu văn đa dạng, nhiều lớp, giàu nhịp điệu, từ khiến người đọc đồng cảm. Sông Đà, dưới bàn tay của nhà văn, trở thành một sinh vật sống động, đầy tâm trạng.
* Nhìn nhận con người với tài năng nghệ thuật: Người lái đò được mô tả như một dũng tướng tài năng, mang phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
* Tác giả làm nổi bật những đặc điểm tuyệt vời của cảnh vật, con người: Sông Đà hung ác và hiểm trở, người lái đò tài hoa.
Tận dụng kiến thức từ nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật khác nhau về đối tượng sáng tạo để tạo ra hình ảnh: Dòng sông Đà dữ tợn và những trận thủy chiến của ông lái đò được mô tả thông qua tri thức văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lý, lịch sử, quân sự, võ thuật.
Ngôn ngữ trong tác phẩm:
* Sử dụng từ ngữ một cách sắc bén để tạo ra dấu ấn riêng. Ý nghĩa và biểu cảm của từ ngữ biến đổi, biến hóa: tiếng sóng thác vang vọng trong trí óc, ánh nắng long lanh, huyền thoại cổ xưa, lời thơ trôi trên dòng nước… Tác giả còn sáng tạo ra những từ ngữ mới, tinh tế, giàu ý nghĩa: nhịp tim, nhịp sóng, đỉnh sóng…
* Tác giả đã mô tả đa dạng, từ nhiều góc độ. Câu văn ngắn gọn kết hợp với câu dài: đoạn mô tả phần cuối vượt qua rào cản thứ ba, khi viết đến phần câu chốt ý (… Cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền… xuyên nhanh, vừa xuyên vừa…), đã kết thúc một cách gọn gàng, thể hiện ý hoàn thành: Và thế là hết thác.
* Sự độc đáo trong cách mô tả con sông Đà là việc kết hợp giữa tính hung ác và mặt thơ mộng của đối tượng mô tả, đồng thời cũng thể hiện những chi tiết tự nhiên, không hoàn thiện (dòng sông tấn công đò nhưng lại êm đềm như ven sông).
C. Phần kết
- Khẳng định một lần nữa sự tài năng văn chương tuyệt vời của Nguyễn Tuân
- Việc sử dụng linh hoạt các phương tiện nghệ thuật đã làm cho tác phẩm “Người lái đò sông Đà” trở nên hấp dẫn.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 1
Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân ra đi vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người “suốt đời tìm kiếm cái Đẹp” ấy không phải lo lắng, hối tiếc điều gì nữa. Bởi những gì ông đã đóng góp cho văn học hiện đại của Việt Nam không ai có thể thay thế được. Đọc tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của ông, ta càng hiểu sâu lời nhận xét của Anh Đức: “Không biết khi nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề cảm thấy ngần ngại, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như mang theo một vẻ đẹp riêng”.
Nguyễn Tuân được coi là một trong những nhà văn tuỳ bút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' của ông thể hiện rõ những đặc điểm nghệ thuật độc đáo của thể loại tuỳ bút.
Phong cách nghệ thuật tuỳ bút của Nguyễn Tuân đã được thể hiện qua những trang viết tài hoa và uyên bác, đồng thời đem lại cho độc giả nhiều kiến thức văn hóa sâu sắc.
Với tài năng và kiến thức sâu rộng về điện ảnh, Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn từ một cách độc đáo để tạo ra hình ảnh sống động như một đoạn phim, đem đến cho độc giả trải nghiệm đầy ngạc nhiên và thú vị.
Khi nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến tinh thần phiêu lưu. Anh ta là một người thích thách thức, muốn khám phá thế giới xung quanh mà không cần mục tiêu cụ thể.
Một cái nhìn mới về phong cách nghệ thuật là gì? Đó chắc chắn phải là sự sáng tạo và khám phá, thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ đặc biệt và độc đáo của mỗi nhà văn. Nguyễn Tuân là một trong những tác giả có phong cách sâu sắc và độc đáo.
Những tác phẩm của Nguyễn Tuân phản ánh sự tình yêu và tự hào về con người, sự tài năng và sáng tạo của những người thực sự yêu quý quê hương và nền văn hóa của mình.
Nguyễn Tuân ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987, nhưng tác phẩm của ông vẫn sống mãi trong lòng người đọc. Sự độc đáo và tinh tế của văn phong ông là điều không thể phủ nhận.
Đánh giá nghệ thuật Người lái đò sông Đà - Mẫu 2
Nguyễn Tuân được biết đến như một nhà văn tài hoa và tinh tế. Những tác phẩm của ông không chỉ mang lại kiến thức về văn hóa, mỹ thuật, quân sự, mà còn làm sống lại vẻ đẹp của sông Đà trong tâm trí độc giả.
Việc miêu tả thạch trận thủy quái và nghệ thuật lái đò của Nguyễn Tuân được coi như một tác phẩm điện ảnh chân thực. Phong cách của ông thể hiện ở cách nhìn và mô tả thiên nhiên độc đáo.
Nguyễn Tuân tận hưởng sự tự do sáng tạo khi viết về sông Đà, và ông đã làm cho sông Đà trở thành một nhân vật đầy sức sống dưới ngòi bút của mình.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân về sông Đà không chỉ miêu tả sự dữ dội mà còn tôn vinh vẻ đẹp và tính trữ tình của nó.
Dưới góc độ nghệ thuật, Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, phản ánh sự phong phú và đa dạng của nó.
Những tác phẩm của nhà văn mang đến cho độc giả niềm tự hào về dân tộc và tài năng nghệ sĩ của chúng ta.
Hình ảnh người lái đò dưới bàn tay của Nguyễn Tuân trở thành một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, phản ánh sự dũng cảm và uyên bác của họ.
Nguyễn Tuân vượt qua thách thức trong việc miêu tả sự dữ dội và phức tạp của cuộc giao tranh giữa con người và thiên nhiên.
Văn của Nguyễn Tuân là một biểu hiện của nghệ thuật độc đáo và sức mạnh của từ ngữ trong việc thể hiện cảm xúc và tài năng nghệ sĩ.
Nguyễn Tuân đã biến sông Đà thành một nhân vật sống động, phản ánh sự bạo lực và tính nham hiểm của thiên nhiên.
Các tác phẩm của Nguyễn Tuân thường khiến người đọc cảm thấy mãnh liệt, tăng cường cảm xúc khi tiếp cận với các sự vật được mô tả, để trải nghiệm những khung cảnh hoặc trạng thái cảm xúc mạnh mẽ hoặc ấm áp, đẹp đẽ, hoặc thể hiện một tài năng vượt trội không thể so sánh. Phong cách của Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú. Trong Người lái đò Sông Đà, phong cách của nhà văn được thể hiện rõ nhất thông qua sự sắc nét của giác quan nghệ thuật đi kèm với một nguồn vốn từ vựng phong phú và đa dạng, đầy màu sắc, và góc nhìn đa chiều. Bài tùy bút Người lái đò Sông Đà cũng thể hiện một Nguyễn Tuân với sự giàu có về văn hóa, sự lịch lãm, một Nguyễn Tuân tài năng với cái nhìn đa chiều từ nhiều lĩnh vực nghệ thuật.
Phong cách của Nguyễn Tuân đã mang lại cho các tác phẩm một giá trị độc đáo: vừa có giá trị văn học, vừa có giá trị văn hóa, vừa có giá trị thông tin, đồng thời giúp người đọc thêm yêu thiên nhiên và đất nước, tự hào về những người lao động tài năng và tăng thêm lòng quý trọng, tình yêu với vẻ đẹp của tiếng Việt.
Đặc biệt nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 3
Người lái đò Sông Đà, trích từ tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, được sáng tác vào năm 1960. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả vào Tây Bắc vào năm 1958. Phong cách và con người của vùng Tây Bắc đã được đưa vào trang sách với một niềm vui sống bao trùm mọi người, kèm theo những cảm xúc và suy tư trước vẻ đẹp kỳ diệu và lạ lùng của vùng núi Tây Bắc.
Tác phẩm sử dụng người lái đò như một nhân vật chính trong câu chuyện về Sông Đà, nhưng thực sự, đó là cảm nhận, lắng nghe, quan sát, suy ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Việc mượn lời của người lái đò già nhưng thực chất là tác giả mô tả cuộc sống từ nhiều góc độ khác nhau, từ đó phản ánh tâm trạng và tình cảm của mình đối với con sông biểu tượng cho thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Với phong cách viết của Nguyễn Tuân, Sông Đà đã trở thành biểu tượng của tác giả. Đây là một con sông mang trong mình lịch sử sâu thẳm, tạo ra những nhân vật anh hùng của riêng nó. Sông Đà được tạo hình bằng ngòi bút tài tình, độc đáo, thể hiện sự kết nối mạnh mẽ với đất nước đến tận cùng của tâm hồn tác giả.
Sông Đà hung dữ, Sông Đà là bản tình ca anh hùng, điều này là bản chất của nó. Sự tài năng của nhà văn khiến bản chất ấy trở nên rõ ràng hơn. Sông Đà hung bạo ở những khu vực có thác nước dữ, những đoạn sông hẹp, bị chia cắt giữa hai vách núi cao hoặc những nơi có xoáy nước nguy hiểm, hút vào mọi thứ và đẩy xuống đáy sông.
Ở đây có nhiều chi tiết chính xác, khoa học kết hợp với cảm xúc phong phú của tác giả. Sông Đà đôi khi dữ dội, nguy hiểm trong vẻ đẹp hùng vĩ không thể tin được: có thể là những cục đá biến thành thạch nhũ, hoặc những vách đá cao chót vót, chỉ khi trời mới lạnh... Khi đôi khi thêm chút huyền thoại vào trong những hình ảnh thơ mộng như con nai, con hổ băng qua sông, tưởng chừng như lòng sông chỉ là một dải vải trong truyền thuyết cổ.
Tất cả những gì thuộc về Sông Đà đều có sự dữ dội. Cát, gió, đá, thác, sóng nước tất cả hợp tác với nhau: Nước đẩy đá, đá đẩy sóng, sóng đẩy gió và gió cuốn theo từng luồng. Chỉ cần nghe tiếng nước ở những khu vực có thác lớn cũng đủ khiến người ta sợ hãi. Tiếng gào thét của nước đôi khi nghe như lời trách móc, sau đó lại như lời van xin, rồi trở thành sự khiêu khích, giọng điệu từ đầy sự căm phẫn... Rồi đột nhiên không biết vì lý do gì mà nó hống hách như hàng ngàn con trâu đang sôi sục. Hoặc đôi khi nó gầm rống như đang đun sôi một trăm độ, muốn làm đảo lên một chiếc thuyền đang bị chôn vùi dưới một cái nắp đậy lên như một cái nắp của một cái nồi hầm nước to lớn. Nhưng không gì có thể so sánh với tiếng nước ở những nơi có xoáy. Ở đó, nước rít rà như đang rót dầu sôi vào.
Tiếng nước đã đủ khiến người ta sợ hãi, sức mạnh của nước còn khiến người ta kinh hãi gấp bội. Mặt sóng cũng có độ dốc như mặt đường nhà, vào những chỗ đó, nếu thuyền vào thì sẽ bị đẩy xuống hoặc bị nổi lên. Nếu thuyền vào luồng nước thì sẽ chết ngay, hoặc nếu không vào được luồng thì vẫn có thể bị mắc kẹt đó mãi mãi. Những khó khăn của Sông Đà biểu hiện sự đối đầu với một thứ kẻ thù không đội trời chung của con người: hung ác, tinh quái và xảo quyệt.
Sông Đà thật sự không phải làm sai tiếng đồn về sự dữ dội của nó. Cát, đá, nước, gió, sóng cùng nhau tạo thành một vùng nguy hiểm. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngòi bút đa màu để mô tả hàng loạt hình ảnh khác nhau một cách sắc nét, vừa có sự thông minh vừa có sự sáng tạo, vượt xa những phương pháp phổ biến, thâm nhập vào bản chất sâu sắc nhất, độc đáo nhất của sự vật, tạo nên những bức tranh vô cùng phong phú về Sông Đà, một môi trường anh hùng ca độc đáo.
Sông Đà có dữ dội nhưng cũng mang trong mình sự trữ tình. Điều đó thể hiện ở những đoạn sông trôi êm đềm. Nhìn từ trên cao, Sông Đà trải dài như một dải tóc trữ tình, với đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời của Tây Bắc, nơi mùa hoa ban và hoa gạo tháng hai bung nở và mù khói núi Mèo.
Màu sắc của nước Sông Đà thay đổi theo mùa: Trong mùa xuân, dòng nước có màu xanh ngọc bích,... còn trong mùa thu, nước Sông Đà đỏ rực. Trên sông, những chiếc thuyền then đuôi én lướt trên dòng nước, tạo nên vẻ đẹp thơ mộng đặc trưng. Sông Đà kể lên nhiều câu chuyện với con người. Nguyễn Tuân nhìn nhận Sông Đà như một người bạn cũ, một đồng đội lâu ngày gặp lại. Nhà văn thưởng thức ánh nắng vàng rực trên sông, liên tưởng đến mùa nắng tháng ba của Đường thi, và bài thơ tươi vui của Lý Bạch đời Đường ở Trung Quốc.
Trên thác, phải dùng sào để chống lại dòng nước. Trên vai của người lái đò, đầu sào in sâu vào da thịt, đây là hình ảnh thực tế. Tác giả ghi lại thêm: Cảnh người lái đò níu kéo mảnh đời, trong đó đồng tiền đầy máu là biểu tượng quý giá của một chiến thắng lao động siêu việt dành cho người lái đò Sông Đà. Những con người dũng cảm và thông minh đã chiến thắng được sức mạnh dữ dội của thiên nhiên. Trong người lái đò, có cái gì không phản ánh lại con sông, không là sản phẩm của Sông Đà? Sông Đà với người lái đò thực sự là một trường đấu anh hùng, nơi ông đã thuộc về, cả những chấm câu và những dòng xuống, người lái đò đã trở thành một nghệ sĩ tài ba trong nghệ thuật vượt thác. Nguyễn Tuân gọi kỹ năng của ông là tay lái của hoa.
Vị thế của Sông Đà đã được đề cập, còn đây là tình cảm của tác giả đối với con người, kết quả của dòng sông ấy. Người lái đò là một sản phẩm của Sông Đà, được tác giả tập trung mô tả trong cuộc chiến với thác nước của Sông Đà. Sức mạnh của Sông Đà đã được người lái đò kiểm soát. Hình ảnh của người lái đò: níu kéo vết thương, hai chân vẫn giữ chặt cái cần lái, khuôn mặt méo mó nhưng vẫn cố gắng vượt qua thác, nắm chặt bờm sóng, đẩy cương, đối mặt và chặt đôi những dòng nước... một hình ảnh sống động và đầy ấn tượng.
Trải nghiệm văn chương của Nguyễn Tuân, đặc biệt là những bài tùy bút, giống như việc nhìn vào một chiếc gương đa màu sắc. Thực tế, ngòi bút của tác giả không chỉ phản ánh bảy màu sắc mà là vô vàn màu sắc. Nguyễn Tuân đi sâu vào bản chất của mỗi sự vật, sự kiện, con người để khám phá và hiểu rõ hơn, bắt trọn vẹn cái cốt lõi, bản chất, tinh hoa của chúng. Đồng thời, ông kết hợp sự uyên bác trong hiểu biết, phong cách làm việc nhanh nhạy, tỉ mỉ, khoa học, phong phú về tri thức và cảm xúc sâu sắc được thể hiện qua ngôn ngữ sáng tạo độc đáo, rất riêng của Nguyễn Tuân, không thể nhầm lẫn với ai khác.
Bút pháp của tác giả trong 'Tùy bút Sông Đà' là minh chứng cho tài năng văn học già dặn cùng phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một cây bút lớn của văn học hiện đại Việt Nam.
Sự tinh tế trong nghệ thuật của Người lái đò Sông Đà - Mẫu 4
Có lẽ Nguyễn Tuân đã rất ấn tượng với những bài thơ về sông của một nhà thơ Ba Lan. Sông nước quê hương đã trở thành chủ đề của nhiều tác phẩm xuất sắc của ông, trong đó có cả Sông Đà - một tác phẩm văn xuôi vĩ đại. Có lẽ không chỉ vì ham muốn tìm kiếm cảm xúc hoặc khao khát phiêu lưu mạo hiểm đã đưa Nguyễn Tuân đến với dòng sông lớn này ở vùng núi Tây Bắc. Có thể ông đã có một trí tuệ nghệ thuật sáng suốt, một bản năng nghệ thuật giúp ông hiểu rõ nguồn cảm hứng từ sông Đà cách đây hàng chục năm trước khi sự nổi tiếng của nó thực sự lan rộng trong các lĩnh vực như âm nhạc, hội họa, sân khấu, thơ ca, văn chương. Và từ đó đến nay, mặc dù đã có nhiều người viết về sông Đà, tạo ra thơ ca và bài hát về sông Đà, có lẽ không ai vượt qua được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước đó thành nghệ thuật, biến nó thành một nguồn cảm hứng vô tận.
Nhưng để tạo ra một tác phẩm văn học sâu sắc về sông Đà như của Nguyễn Tuân, cảm xúc và sự quan sát chưa đủ. Như Xuân Diệu đã nói về sự cần thiết của sự uyên bác trong lĩnh vực nghệ thuật trữ tình như thơ. Tôi tin rằng Nguyễn Tuân cũng thừa nhận điều này, và có thể thậm chí còn hơn - đặc biệt trong lĩnh vực văn chương và tùy bút - để chỉ ra rằng sự uyên bác đó có thể ảnh hưởng đến cách mà tài năng văn chương phát triển. Đọc nhiều văn của Nguyễn Tuân, ta càng nhận ra rằng, nhà văn đặc biệt này luôn xuất sắc trong sự uyên bác, rằng tài năng đặc biệt, không thể so sánh với ai khác, cũng là người có kiến thức sâu rộng, thông thái về văn hóa. Và sông Đà không phải là ngoại lệ. Chỉ có Nguyễn Tuân, và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới có thể dám khám phá đến nguồn cội của dòng sông, điều tra đến nơi gốc rễ của sông Đà, biết rằng nó bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông và bắt đầu từ dãy núi, con sông mang theo những tên gọi Trung Hoa với những hình ảnh đẹp mắt như Li Tiên, Bả Biên Giang. Và không phải ai cũng như Nguyễn Tuân, chỉ cần một vài câu chữ để diễn tả về dòng nước Đà cũng đã phải bay ngang qua miền sông ấy hàng lượt. Sau đó, ông mới khẳng định rằng nước sông Đà không bao giờ đen; thay vào đó, nó mang màu xanh ngọc bích dưới trời xuân, khác biệt với sông Gấm hay sông Lô với nước xanh 'canh hến' (tác giả mất công quan sát và chọn từ!). Mỗi mùa thu, nước sông Đà lại 'lừ lừ chín đỏ như làn da của người say rượu'. Từ đây, ai dám khẳng định việc viết văn không cần nỗ lực? Ai dám tin rằng phong cách thảnh thơi, phóng khoáng của Nguyễn Tuân cho phép nhà văn chỉ cần viết khi cảm xúc tới thì chỉ cần một phất bút là đủ để tạo ra những tác phẩm văn học đẹp mê hoặc?
Tuy nên nhớ rằng Nguyễn Tuân không chỉ là một nhà văn bình thường, mà còn là một tâm hồn văn chương độc đáo, không ai giống và cũng không ai có thể bắt chước được. Cái đẹp của những dòng viết trong Người lái đò Sông Đà không chỉ đến từ việc tác giả đã in dấu ấn riêng của mình vào dòng sông Đà, mà còn từ sự kết hợp tinh tế giữa cái chủ quan của tâm hồn và cái khách quan của cảnh đẹp tự nhiên, tạo nên một tác phẩm văn chương có dấu ấn độc đáo của Nguyễn Tuân.
Hãy xem xét một ví dụ khác từ Người lái đò Sông Đà. Trong đoạn mở đầu, tác giả mô tả 'cảnh đá bờ sông dựng vách thành' và những bức vách đá cao chót vót, chen chúc bên bờ sông hẹp. Việc mô tả sự hẹp hòi của lòng sông được thể hiện một cách tinh tế qua các đoạn văn như 'Mặt sông chỉ xuất hiện khi mặt trời đã lên cao.' hay 'Thậm chí con hổ, con nai cũng có thể nhảy qua sông, và chỉ cần một chút lực nhẹ cũng đủ để ném hòn đá từ bờ này sang bờ kia'. Cách viết như thế đã thu hút độc giả, nhưng không đến mức làm cho họ kinh ngạc, trừ khi họ thấy được sự tinh tế và bất ngờ trong câu cuối cùng: 'Ngồi trên chiếc thuyền trôi qua những khoảnh khắc ấy, dù là mùa hè nhưng vẫn cảm thấy lạnh, như đang đứng ở góc một con ngõ, nhìn lên khung cửa sổ nào đó trên tầng nhà cao và thấy đèn điện sáng rồi tắt đi.' Một so sánh chính xác và tinh tế như vậy không thể không khiến người đọc phải ngạc nhiên và kính phục tài nghệ của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân mô tả một con sông Đà hung bạo. Một nhận xét như vậy có thể không gây ấn tượng lớn nếu người đọc không thực sự nhìn thấy cách mà tác giả đã sử dụng từ ngữ để biến sự hung bạo đó thành hình ảnh sống động và âm thanh vang vọng.
Đọc giả như được đưa vào chiếc thuyền đang lao xuống thác, cảm nhận âm thanh của nước thác và những tảng đá đầy thách thức trước mắt, như 'những tảng đá nhô lên từ dưới nước như muốn nhấp vào thuyền.'
Trong đoạn này, tác giả đã sử dụng rất nhiều nhân hoá để tạo ra hình ảnh sống động của những khối đá vô tri. Cách mô tả như 'Một khối đá trông như đang nghiêng về phía trước, sẵn sàng tấn công thuyền bằng hàm răng của mình. Một khối đá khác lùi lại một chút, như đang thách thức thuyền liệu có đủ can đảm để tiến gần.' đã thể hiện sức mạnh của từ ngữ và khả năng sáng tạo của tác giả.
Cái dáng đá hất hàm ấy trông nó xấc xược, hỗn hào, du côn một cách rất là hiện đại. Nhưng đọc cả đoạn văn, vẫn cảm tưởng thấy tác giả Người lái đò Sông Đà cứ như muốn vừa tìm sự hoà ứng vừa như muốn tranh đua với ca khúc thứ XII của Ô-đi-xê bất hủ, đoạn tả chiếc thuyền của Uy-lit-xơ vượt qua khoảng giữa hai con quái thạch Karip và Xila. Hãy nghe lại âm vang hào tráng của Hô-me-rơ từ bao nhiêu nghìn năm trước: “Chúng tôi… chèo thuyền tiến thẳng vào eo biển hiểm nghèo một bên là Xila, một bên là Karip ùng ục ngốn nước biển. Mỗi lần nó nhả nước ra, cả biển khơi đều chuyển động, sôi lên như nước trong chảo đặt trên một bếp lửa hồng… Rồi khi nó lại nuốt nước mặn vào thì làm biển sùng sục cuộn lên; vách đá xung quanh kêu réo ghê sợ, và đáy biển lộ ra với mặt cát đen thẫm… Có phải là ta đã gặp lại trong cái hung bạo của sông Đà hôm nay rất nhiều thần thái cái hung bạo của chốn eo biển nào rất xa xôi tận thời cổ đại?
Người ta bảo trong các nhà văn thật lớn thường vẫn còn một đứa trẻ thơ, và đứa trẻ ấy giúp nhà văn giữ được cái nhìn cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn để cằn cỗi héo tàn đi trên đường đời khó nhọc. Trường hợp Người lái đò Sông Đà có lẽ cho phép ta được nghĩ thêm: trong đôi mắt của nhà văn lớn hôm nay hình như vẫn lấp lánh tia mắt không chỉ của tuổi thơ đời người mà còn của cả thời ấu thơ nhân loại. Và của cả những giai đoạn vẫn cổ xưa nhưng có gần gũi chúng ta hơn. Đọc những dòng viết về thạch trận Đà giang, tôi cứ cảm thấy nó phảng phất những trận đổ trường xà, bát quái cũng có đủ cửa tử cửa sinh trong truyện cũ. Rồi lại chợt nhớ ra Gia Cát Khổng Minh cũng đã có lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội của sông Đà được nhân mãi lên trong trùng trùng liên tưởng.
Hình ảnh đá thác sông Đà bao quanh, giam cầm một chiếc thuyền lẻ loi, không chỉ mang một màu sắc hung dữ mà còn chứa đựng bóng dáng của Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng chỉ huy một dàn giao hưởng thổi bài ca hùng vĩ của gió thác. Ban đầu, tác giả tạo ra một bài hát khởi đầu nhẹ nhàng với âm vang của dòng nước thác 'như là sự oán giận, lúc khẩn cầu, lúc khiêu chiến'. Nhưng bất ngờ, âm thanh được khuếch đại, những nhạc cụ reo lên trong khúc nhạc của một thiên nhiên ở đỉnh cao của sự phấn khích mạnh mẽ và hoang dại, nơi âm thanh cuồng loạn của rừng núi được dùng để tả mô sự giận dữ của thác nước va đập vào bờ đá. Tiếng sóng thác - nhà văn viết - 'như tiếng nghìn con trâu mộng đang lấp ló giữa rừng vùng đất hoang vu, đang xông pha rừng lửa, rừng lửa đang gầm thét với bầy trâu da cháy bùng cháy'. Dám sử dụng lửa để miêu tả cái mâu thuẫn với lửa là dòng nước, dám sử dụng rừng để tả sông. Nguyễn Tuân quả đã tạo ra một cú đánh mạnh mẽ trong nghệ thuật. Nhưng mà, ông đã đánh mạnh mẽ mà ta lại được: ta nhận được một cái nhìn tổng thể và thú vị hơn về sự tương tác của các lực lượng tự nhiên.
Trên đây là bức tranh của một thiên nhiên mà Nguyễn Tuân đã muốn 'trông nó ra diện mạo và tâm hồn của một kẻ thù số một'. Nhưng cũng đúng khi nói rằng thiên nhiên cũng là người tôn vinh số một giá trị của con người.
Thật sự, ai là người lái đò sông Đà, nếu chiếc thuyền của họ không phải vật lộn với 'dòng thác hùng mạnh đang rối rắm trên sông đá'? Có thể họ sẽ mang một vẻ đẹp của một loại thủy thủ, ngư dân, hoặc lái thuyền... nhưng không thể trở thành chủ đề của một khúc hùng ca. Ngược lại, chính sự hùng mạnh của sóng thác, của sông nước Đà giang sẽ đưa con người dám đối đầu và chiến thắng thần sông đá lên hàng oai linh tối thượng.
Người xưa thường hiểu rằng 'cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ' là biểu tượng của sự anh hùng. Và người lái đò sông Đà, dưới bàn tay của Nguyễn Tuân, cũng chính là người cưỡi gió và đạp sóng, cả về nghĩa đen lẫn bóng. Nhà văn đã sử dụng từ ngôn từ để diễn tả cuộc đấu tranh giữa người lái và dòng sông: ban đầu có vẻ như hai bên hoàn toàn không đồng đều. Xung quanh người đơn độc, 'mặt nước hò la vang dậy... đổ vào để bẻ gãy cán chèo'. Và 'sóng nước như quân liều mạng tấn công sát nách, đẩy vào đụng vào thuyền', làm thuyền lật ngửa giữa bầu trời và thác nước. Các luồng sóng thi nhau 'đánh hổi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm' vào những vị trí dễ bị tổn thương nhất của con người...
Nhưng trái lại, con thuyền đối địch mang lại điều gì? Một chiếc thuyền mảnh mai, trên đó, người lái đang đối mặt với những đợt sóng dữ dội, cả hai tay nắm chặt cán chèo, đôi chân kẹp chặt vào bàn lái, khuôn mặt méo bệch vì 'cố nén vết thương' (Nguyễn Tuân không viết 'méo xệch' mà là 'méo bệch'. Điều này thể hiện cách dùng từ sắc bén của ông để miêu tả cảm giác đau đớn của dòng nước đối với con người).
Mặc dù ba lớp thạch trận với nhiều cửa tử, nhưng không thể hạ gục được chiếc thuyền đơn độc. Những vị tướng đã từng thắng trận, nếu không tấn công vào cửa sinh và không phá ra cửa sinh đối phương, thì trận đánh sẽ kết thúc với bên thua bị hủy hoại. Ông đò của Nguyễn Tuân cũng vậy. Nhà văn muốn, thông qua trường hợp của ông lái đò, chúng ta cùng nhau suy ngẫm về triết lí: giữa thế giới độc ác và nham hiểm, thế giới đầy sức mạnh và cạm bẫy, con người vẫn có khả năng tìm ra con đường sống. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu. Ông không có cánh tay Hércules để đối đầu với sức mạnh của Neptunus. Nhưng ông 'đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá'. Và kiến thức về đò, sông, nước, từ trí óc của người lao động, đã khiến ông, dù chỉ có một cây chèo (một que nhỏ giữa sóng thác mạnh!) vẫn có thể vượt qua khó khăn như một chiến binh vượt qua thiên tai. Một cảm hứng lớn đã khiến Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông Đà như một trận đánh ảo diệu, hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một anh hùng. Có thể là quá lời, có thể gây ngạc nhiên, nhất là đối với một nhà văn nổi tiếng nhưng kiêu ngạo? Tôi không nghĩ như vậy. Theo tôi, đừng nghĩ Nguyễn Tuân chỉ ca ngợi một người. Ông ca ngợi Lao Động, ca ngợi Con Người, ông làm cho 'hai tiếng Con Người vang lên kiêu hãnh biết bao!'. Người lái đò sông Đà - nhà văn muốn vậy - thể hiện cái tư thế của con người trước một thiên nhiên thần thánh.
Và khi trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, mái chèo của ông đò dừng lại, đối mặt với thác nước, dòng sông Đà bỗng thay đổi. Lời văn của Nguyễn cũng trở nên nhẹ nhàng như bầu không khí của mùa xuân mùa thu, nơi tác giả nhìn xuống từ tàu bay 'các đường sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình'. Từ đó, người du hành tài năng đã sử dụng bút vẽ ra một bức tranh của dòng sông chỉ trong một câu văn, câu văn sẽ mãi mãi vang vọng trong lòng độc giả: 'Con Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân'.
Nếu được phép diễn đạt cảm xúc cá nhân, thì thực sự, sự hứng thú của tôi chủ yếu được đặt vào phần mô tả trữ tình về dòng sông Đà. Làm sao có thể không yêu thích cách Nguyễn diễn đạt trong phần nói về việc 'nhìn Sông Đà như một người bạn cũ'. Ban đầu, chỉ là một cảm giác mơ hồ về việc 'thèm một chút không gian thoáng đãng', bởi 'ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu', thậm chí còn 'quên đi mình sắp đổ ra Sông Đà'. Rồi dòng sông hiện ra, nhưng chỉ một cách mờ nhạt, không rõ ràng như trong mơ, đúng là cảm giác về việc nhìn nhận dòng sông từ xa, trong cái ánh 'yên hoa tam nguyệt' lấp lánh vàng như từ thời Đường thi. Tính ra vẫn chưa hiểu tại sao tác giả có thể cảm nhận được 'nắng giòn tan...'? Chỉ biết khi ba từ này đã được viết ra thì không gì có thể đúng hơn, hay hấp dẫn hơn, không thể thay đổi được. Và từ đó, cái 'ấm áp của nắng mùa xuân trên dòng sông mênh mông' có sức lan tỏa niềm hạnh phúc của việc sống trên mặt đất này.
Điều kỳ diệu hơn nữa, theo tôi, là đoạn văn mở đầu từ câu: “thuyền tôi trôi trên Sông Đà”. Câu này viết rất thanh bằng, đẹp như một bài thơ. Đoạn văn này, tôi cảm thấy nó thơ hơn rất nhiều so với nhiều bài thơ tôi đã đọc. Có lẽ không có nhà thơ nào mong muốn tạo ra sự yên bình mơ màng của một chiếc thuyền trôi giữa hai bờ hoang dã, cái yên bình tuyệt đối để ru hồn người vào cảm giác ảo về bờ sông tiền sử, về một ký ức huyền thoại hoặc những kỷ niệm về thời Lí và thời Lê... Và cũng là sự yên bình mơ màng đến mức con người chờ đợi một sự giật mình để tỉnh giấc khỏi giấc mơ xưa mà không thành. Mùa xuân trên dòng Đà được nhà văn mô tả qua những lá non nảy mầm trên một cánh đồng và những đám cỏ mọc trên đồi. Và hình ảnh của con hươu, đặc biệt là 'con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương'. Nhớ lại khi viết Sông Đà, Nguyễn Tuân đã ngoài 50 tuổi, và tinh thần văn học của ông đã già từ thời Vang bóng một thời, từ Một chuyến đi. Nghĩ thế lại càng thấy quý giá cái bờ ngỡ non tơ đến tuổi năm mươi lại nảy lộc trong nhà văn bên một dòng sông, một cuộc sống mới.
Và cảm xúc đáng trân trọng ấy vẫn tiếp tục trong tôi với những âm thanh văn xuôi rất đặc biệt như là “nên câu tuyệt diệu”: “Hỡi ông khách Sông Đà có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi… Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”… Tôi cảm thấy rằng chiếc bè thơ kết bằng những câu văn xuôi ấy mang lại cho mình một trải nghiệm văn chương đặc biệt, một trải nghiệm hiếm gặp trong đời.
Tuy nhiên, tác giả của Người lái đò Sông Đà không chỉ là một người tinh tế. Tôi trân trọng sự nhạy cảm của ông về cái đẹp. Nhưng qua dòng văn của ông, tôi hiểu rằng điều quan trọng hơn cả vẫn là tình yêu chân thành của ông dành cho thiên nhiên và đất nước, là sự tôn trọng công lao của con người.
Nghệ thuật đặc sắc trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 5
'Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu'.
Sông Đà ngày nay đã đóng góp cho đất nước chúng ta những nguồn điện, mang ánh sáng đến mọi ngóc ngách. Hơn bốn mươi năm trước, nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tác 'Sông Đà', trong đó có bài kí 'Người lái đò sông Đà', tôn vinh vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông núi và tài nghệ dũng cảm của con người Tây Bắc. Tác phẩm này thực sự là một 'tác phẩm nghệ thuật', một 'tác phẩm xuất sắc', thể hiện những nét đặc sắc của phong cách văn học của Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ vĩ đại, tiêu biểu cho văn xuôi hiện đại của Việt Nam: uyên bác, tài hoa, độc đáo.
Bài kí này tập trung vào hai hình tượng - con sông Đà và người lái đò trên dòng sông Đà - để tạo ra nhiều cảm xúc thẩm mỹ cho độc giả.
Hàng thế kỷ trước, con đường lên Tây Bắc chủ yếu đi theo con sông Đà, có câu ca dao nói:
'Đường lên Mường Lễ xa xôi,
Mười bảy thác, ba trăm và ba ghềnh'.
Sông Đà hùng vĩ, đồng thời cũng dịu dàng và thơ mộng. Nguyễn Tuân coi Sông Đà như một người bạn thân thiết, một 'cố nhân' đầy kỷ niệm và xúc động. Một em học sinh nhỏ có thêm thông tin rằng: Li Tiên và Bả Biên giang là hai tên cũ của Sông Đà. Chiều dài của nó lên đến 883.000 mét, riêng từ biên giới Việt - Trung đến ngã ba Trung Hà có độ dài chính xác là 500 cây số theo chuẩn rồng rắn.
Sông Đà dữ dội với nhiều thác và ghềnh. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du lịch sâu rộng, biết rõ tất cả, từ núi đến sông, kể về tên của nhiều thác, những tên lạ như: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió, thác Tiếu, thác Bờ,... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống sông Đà êm ả, bình yên; người Thái mới có câu tục ngữ: 'Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm'.
Ở đầu nguồn, lòng sông Đà co lại 'như cái yết hầu', hai bên vách đá cao đứng như 'con nai, con hổ có thể nhảy từ bờ này sang bờ kia'. Ở ghềnh Hát Loóng 'nước đẩy đá, đá đẩy sóng, sóng đẩy gió, cuồn cuộn gùn ghè....' dài hàng vài cây số! Có những vực sâu như giếng bê tông 'nước thở và kêu ặc ặc như cửa cống cái bị sặc', trên đầu những cánh quạ đang chờ mồi. Âm thanh tiếng thác mới ghê rợn, lạ lùng như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng tre, rừng vầu bị cháy. Nguyễn Tuân tạo ra so sánh và liên tưởng rất 'đắt' cho thấy óc quan sát, cách nghĩ và cảm nhận của ông về thác, ghềnh Đà giang. Có khi ông ví sông Đà hung dữ như một kẻ thù đáng sợ nhất của con người. Nó hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác với bao 'thạch trận', bao 'trùng vi' có những tướng đá dữ tợn, lạnh lùng đứng trấn giữ lớp lớp 'cửa tử' và 'cửa sinh' với những bẫy chìm khắp lòng sông, sẵn sàng nhấn chìm, bẻ gãy tan tành những con thuyền đi qua. Sông Đà cũng có mùa, có những đoạn đẹp một cách lãng mạn: 'Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà đỏ mặt một người bầm đi vì rượu bữa...'. Cuối tháng hai đầu tháng ba, hoa ban hoa gạo nở rộ núi rừng Tây Bắc 'Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình...'. Hình ảnh những đàn hươu ngốn cỏ gianh, những cánh ngô xanh mướt, những con cá dầm xanh quậy lên mặt nước sông 'bụng trắng như bạc rơi thoi' gợi lên vẻ đẹp kỳ thú, hoang sơ của Đà giang.
Nguyễn Tuân đã viết nên những đoạn văn tuyệt vời và tuyệt đẹp nói về vẻ đẹp hoang sơ của sông Đà: 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng lẽ... Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồng ngày xưa'. Sông Đà trở nên thơ mộng hơn với 'những chiếc đò đuôi én thắt mình dây cổ điển' ở vùng trung lưu và 'những chiếc đò mình nở chạy buồm vải' vùng hạ lưu. Đọc 'Người lái đò Sông Đà', hơn bao giờ hết ta cảm nhận một cách sâu sắc câu thơ đề từ: 'Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông'. Với tình yêu sông núi của một con người tài hoa, Nguyễn Tuân đã tả sông Đà một cách đa dạng, biến hóa muôn màu muôn vẻ. Không gian nghệ thuật và thời gian thẩm mĩ vừa thực vừa mộng, đã khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu thiết đối với Đà giang – mảnh hồn Tổ quốc thiêng liêng.
Hình ảnh người lái đò sông Đà được mô tả khá đặc biệt. Con người này như dẫn dắt chúng ta đi ngược dòng sông, lúc vượt thác, lúc cưỡi ghềnh. Đó là một người làm nghề giỏi, thành thạo nghề sông nước. Với con thuyền sáu mái chèo, ông tung hoành xuôi ngược trên chiến trường sông nước, 'nắm chắc binh pháp của thần Sông, thần Đá'. Ông đã đưa con thuyền vượt qua nhiều cửa tử để đi vào cửa sinh, xuôi dòng bình yên. Hơn mười năm liền chở đò xuôi ngược trên sông Đà, tiếng nói của ông 'ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông'. Mái tóc nay đã bạc 'cái đầu quắc thước đặt một thân cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mun'. Cánh tay ông 'trẻ tráng' quá; nhìn ông lão bảy mươi tuổi mà ta tưởng như mình đang đứng trước một chàng trai vạm vỡ. Bả vai và ngực ông nổi lên những 'củ nâu' dấu vết của những tháng ngày chèo đò vượt thác. Nguyễn Tuân gọi đó là thứ 'Huân chương lao động siêu hạng'.
Nhà văn đi sâu miêu tả ông lái đò đưa thuyền qua ba thạch trận trên chiến trường sông nước. Cảnh ghềnh thác cực kì dữ dội, ghê sợ. Lúc thì ông tả thác qua âm thanh nước nghe được, lúc thì ông tả cái hút nước mắt nhìn thấy được như một đoạn phim cận cảnh quay nhanh. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn tung ra một kho ngôn từ giàu có, phong phủ để diễn tả cuộc chiến đấu của người lái đò với thần Đá thần Sông. Cảnh vượt thác ghềnh với bao hình thù và sắc thái, với bao bộ mặt và âm thanh, xa gần ẩn hiện, nhiều tình huống gay cấn nhất, oái oăm nhất được khắc hoạ trên quy mô và tầm vóc hoành tráng, đã làm nổi bật vai trò vị thuyền trưởng dũng cảm tài hoa, chiến thắng những mưu mô xảo quyệt của thần Sông, thần Đá. Mưu trí dũng cảm, quyết đoán làm nên bản lĩnh cao cường của ông lái đò. Có lúc con đò như một mũi tên tre 'vút vút' xuyên qua hơi nước của trùng vi thạch trận. Có lúc ông đã 'nắm chặt cái bờm sóng', nắm chắc lấy luồng nước, vút qua mọi cửa tử lao thẳng đến cửa sinh,... Cũng có trường hợp ông bị luồng nước 'vô sở bất chí' đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, đôi mắt nổ đom đóm hoa lên, nhưng ông lái đò vẫn tỉnh táo đưa con đò thoát hiểm!
Nguyễn Tuân không chỉ mô tả người lái đò khi vượt qua thác và ghềnh mà còn miêu tả ông sau một ngày giao tranh với thần Sông thần Đá, để nhấn mạnh cái sự yên bình, sự thư thái của một vị thuyền trưởng già dặn, đã trải qua nhiều năm tháng trên sông nước. Khi nghỉ chèo, đốt lửa trong hang động, nướng ống cơm lam, ông lái đò chỉ thảo luận về 'cá anh vũ, cá dầm xanh', những con cá đến vào mùa hè với tiếng nổ to như mìn, bộc phát. Việc vượt thác đối với ông không còn là điều gì hồi hộp, đáng nhớ.
Nguyễn Tuân là một danh thủ về ngôn ngữ. Tiếng thác nước được ông tả sinh động, phong phú bằng từ ngữ độc đáo. Trên mặt ghềnh thác thì 'nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió'... Hút nước kêu 'ặc ặc như đổ dầu sôi vào'. Tiếng thác từ xa rất ghê rợn 'như oán trách ... như van xin.... như khiêu khích... giọng gằn mà chế nhạo', có lúc rống lên như đàn trâu mộng hàng ngàn con đang lồng lộn giữa rừng cháy!
Nguyễn Tuân đã tận dụng kiến thức sâu rộng về địa lí, lịch sử, về quân sự, thể dục thể thao, về các môn nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ... cả tiếng lóng của nghề sông nước để tạo ra những đoạn văn hấp dẫn, đẹp mắt. Nào là đòn tỉa đòn âm, đánh hồi lùng, phục kích, vu hồi. Nào là trùng vi thạch trận, boong ke, cửa sinh, cửa tử, pháo đài... Nào là thanh viên, giáp lá cà, tiền vệ, hậu vệ tuyến giữa, tuyến hai... Từ ngữ sử dụng linh hoạt, phong phú, mang lại sự thú vị.
Các từ tượng thanh, nhóm từ đồng nghĩa, so sánh tinh tế, nhân hóa... rất sáng tạo, mới lạ, ý vị và hay. Hồ Xuân Hương viết: 'Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn' ('Tự tình') hoặc 'Hòn đá xanh rì lún phún rêu ('Đèo Ba Dội'). Bà Huyện Thanh Quan lại có câu thơ: 'Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt - Nước còn cau mặt với tang thương'. Đó là những vần thơ tuyệt bút viết về đá mang tính hàm nghĩa. Nguyễn Tuân cũng có những câu văn hay viết về đá, về thạch trận nơi sông Đà: 'Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt...'.
Nguyễn Tuân là một tác giả tài năng, tinh tế trong cách sử dụng kiến thức sâu rộng về văn học. Một câu thơ nước ngoài, một câu thơ cổ được ông dùng làm đề từ, đã tạo ra vẻ đẹp sang trọng cho bài kí. Ông nhắc lại câu đồng dao để kể về huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh giành người đẹp, để mê mải với núi Tản sông Đà:
'Dài dòng sông cao núi vẫn tồn tại,
Năm năm kể oán, đời đời đấu ghen'.
Tác giả sử dụng câu thơ Tản Đà để tô điểm thêm vẻ đẹp mơ mộng của sông Đà:
'Dải sông Đà sóng bọt lênh đênh
Bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình'.
Cảnh xuân trên sông Đà giống như cảnh hoa khói trên sông Trường Giang cách đây hàng nghìn năm, khi thi sĩ Lý Bạch từ biệt bạn Mạnh Hạo Nhiên tại Dương Châu: 'Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu'.
Đề cập đến truyền thống anh hùng của người dân Tây Bắc, tác giả đã chọn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích - một nhà văn kiên cường chống lại thực dân Pháp vào cuối thế kỉ XIX - để thêm vào bài kí:
'Không lòng nỡ quên vùng Tây Châu,
Giữ Thao Đà dải thượng lưu'.
Đọc bài kí 'Người lái đò Sông Đà', ta được hiểu nhiều về vẻ đẹp tự nhiên của Tây Bắc, về địa lý, lịch sử, và về truyền thống cách mạng của dân tộc xung quanh sông Đà, cũng như về văn hóa truyền thống của Việt Nam.
Ai đã đọc 'Vang bóng một thời' đều cảm nhận được sự tài hoa của Nguyễn Tuân khi mô tả về đời sống văn hóa của người xưa, thể hiện phong cách sống đẹp của nền văn hóa Việt Nam.
Đọc 'Người lái đò Sông Đà', ta hiểu thêm về tài hoa và sự uyên bác của Nguyễn Tuân trong việc tả cảnh thiên nhiên và con người.
Đọc 'Người lái đò Sông Đà', ta trân trọng hơn con người Việt Nam và vẻ đẹp của Tổ quốc, đặc biệt là sông Đà - món quà thiên nhiên tuyệt vời.
'Nguồn sông nào bắt nước từ đâu
Khi về đến quê hương, lại hát vang
Người lái thuyền vượt thác, hò hẹn
Phôi pha trăm màu trên dòng sông trôi'
Đặc sắc nghệ thuật trong 'Người lái đò Sông Đà - Mẫu 6'
Nguyễn Tuân, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, đã thể hiện tài năng nghệ thuật xuất sắc của mình qua tác phẩm 'Người lái đò sông Đà', một trong những tác phẩm nổi bật của ông.
Nguyễn Tuân đã tỏ ra rất tài năng trong việc sáng tạo phong cách văn học của mình, đặc biệt là trong thể loại bút ký. Ông đã thể hiện tài năng và tâm huyết của mình qua việc sáng tạo những tác phẩm đầy cảm xúc và tư duy sâu sắc.
Với tình yêu với thiên nhiên và quê hương, Nguyễn Tuân đã sáng tạo và tỏa sáng trong việc mô tả vẻ đẹp của sông Đà qua tác phẩm 'Người lái đò Sông Đà'. Ông đã thành công trong việc tái hiện vẻ đẹp, tính cách đa dạng của dòng sông này, khiến người đọc cảm nhận được sự hùng vĩ và động lòng trước vẻ đẹp tự nhiên của quê hương.
Nguyễn Tuân đã khám phá ra những vẻ đẹp của thiên nhiên trên đất nước, và với tình yêu sâu đậm dành cho quê hương, ông đã mô tả sông Đà một cách tự do, đa dạng cảm xúc. Phong cách viết phóng túng của Nguyễn Tuân, với sự tinh tế và sâu sắc trong cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên, đã tạo nên một phong cách nghệ thuật đặc biệt, gợi lên những cảm xúc sâu lắng trong lòng độc giả.
Với cảm xúc tự do của mình, Nguyễn Tuân đã tái hiện sông Đà với vẻ đẹp phong phú, gợi lên những tình huống khó lường. Phong cách viết của ông không chỉ nổi bật ở mặt ngôn ngữ mà còn ẩn chứa sự tài hoa và uyên bác. Ông thể hiện sự sâu lắng và cái ngông của mình trong việc diễn đạt vẻ đẹp của sông Đà, khiến người đọc không thể phớt lờ một tác phẩm đầy cảm xúc và sức hút này.
Những nét đặc sắc trong việc miêu tả cuộc sống của người lao động qua người lái đò Sông Đà đã làm cho tác phẩm của Nguyễn Tuân trở nên phong phú và độc đáo. Ông vẽ lên tinh thần mạnh mẽ và kiên cường của người lái đò, qua đó thể hiện tính cách cá nhân và sự đa dạng trong phong cách nghệ thuật của mình.
Với tài năng của mình, Nguyễn Tuân đã tạo ra một tác phẩm đặc sắc, mô tả sông Đà với những nét bút tài hoa. Ông tài hoa trong việc tái hiện những tính cách đa dạng của sông Đà, từ hung bạo đến dịu dàng, từ cuồn cuộn đến êm đềm. Tác phẩm này không chỉ gây ấn tượng mạnh mẽ mà còn để lại nhiều cảm xúc sâu sắc trong lòng độc giả.
Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, với cái nhìn đa chiều và sâu sắc. Ông không chỉ thể hiện tài năng về việc diễn đạt cảm xúc và tình yêu với thiên nhiên, mà còn góp phần làm phong phú và đa dạng phong cách nghệ thuật của mình. Sự đa dạng trong cách nhìn nhận vẻ đẹp của sông Đà đã tạo nên một tác phẩm độc đáo và đầy ấn tượng.
Nguyễn Tuân, một nhà văn tài ba, để lại ấn tượng sâu đậm với phong cách sáng tạo của mình, đặc biệt qua hình tượng sông Đà với áng tóc trữ tình, thu hút lòng người.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 7
Nguyễn Tuân được biết đến như một nghệ sĩ tài hoa và uyên bác. Phong cách sáng tác của ông, đặc biệt là trong tác phẩm “Người Lái Đò Sông Đà”, mang lại những trải nghiệm độc đáo và không thể nhầm lẫn.
Nguyễn Tuân, với năng lực nghệ thuật độc đáo, đã tạo nên những tác phẩm đậm chất bi tráng. Phong cách viết của ông không chỉ uyên bác mà còn đầy sức sáng tạo, tái hiện sinh động hình ảnh về sông Đà và những con người tại đây.
Hình ảnh người lái đò Sông Đà được thể hiện sinh động và tài tình qua bút phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Sự kỳ diệu của dòng sông quê hương đã làm nên bài thơ đặc sắc này, tạo ra ấn tượng sâu sắc với người đọc.
Tất cả chi tiết khác đều thể hiện rõ điều đó, như một dải nước dồn dập, đá và sóng, cuồn cuộn nhưng sinh động, nhưng mềm mại, dẫn dắt chúng ta vào một thế giới rộng lớn. Tác giả đã tài tình tái hiện hình ảnh của dòng sông quê hương một cách sống động và tài tình, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Ông sử dụng trí tưởng tượng phong phú và kỹ thuật nghệ thuật của điện ảnh, âm thanh, hội họa để tái hiện các chi tiết trong tác phẩm này. Ông cảm nhận và nhân hóa hình ảnh của dòng sông, thể hiện tính cách hung dữ của nó. Cảm xúc của tác giả thể hiện mạnh mẽ và sinh động, tạo ra một bức tranh sâu sắc và đẹp đẽ về dòng sông.
Hình ảnh về một dòng sông hoang dã và hung dữ được tác giả tái hiện một cách sinh động và sâu sắc. Cảm xúc của tác giả về dòng sông thể hiện rõ ràng, đầy mạnh mẽ và sâu lắng. Tác giả ca ngợi và miêu tả về dòng sông một cách độc đáo và sắc nét.
Nguyễn Tuân là nhà văn đã tạo ra hình tượng của người lái đò một cách điển hình, thể hiện không khí hào hùng và mạnh mẽ trong tác phẩm của mình. Tác giả đã sử dụng các chi tiết tinh tế và không khí để tạo ra một bức tranh sống động và sâu sắc về dòng sông.
Tác giả thể hiện tình cảm đặc biệt đối với dòng sông đà qua các câu văn nhẹ nhàng và tinh tế. Hình ảnh về thiên nhiên và người lái đò sông đà được miêu tả sinh động và chi tiết, tạo ra một bức tranh đẹp và đầy cảm xúc về quê hương.
Sự tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ phong phú và đầy tài hoa của tác giả đã mở ra một cái nhìn toàn diện về phong cách sáng tạo của nhà văn. Ông không chỉ thể hiện vẻ đẹp của một nghệ sĩ tài hoa mà còn khám phá sâu hơn vào cái nhìn đời thực.
Nguyễn Tuân là một nhà văn có khả năng tạo dựng không khí sống động cho tác phẩm, sử dụng nghệ thuật miêu tả để mang lại cảm giác như đang chứng kiến sự việc trực tiếp. Tài hoa của ông thể hiện rõ trong việc tái hiện cuộc sống của người lái đò một cách tinh xảo và điêu luyện.
Trong tác phẩm này, tác giả đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật để mô tả một cách trừu tượng hình ảnh của con sông Đà đầy hung bạo và dữ dội.
Khi đến với sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng kiến vẻ đẹp hung dữ của nó. Ông sử dụng những cảnh thác nước và cảnh đá bờ sông để tô điểm cho hình ảnh của dòng sông, tạo ra một không gian hùng vĩ và đầy ấn tượng.
Tác giả đã mô tả một cách tinh tế và cường điệu về vẻ đẹp hoang dã của sông Đà, qua những cảnh thác nước và cảnh đá bờ sông. Ông muốn truyền đạt sự hùng vĩ và nguy hiểm của dòng sông này cho người đọc.
Khi diễn đạt về ghềnh sông, Nguyễn Tuân đã sử dụng cấu trúc câu trùng điệp như nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô sóng, cuồn cuộn lòng gùn ghè suốt năm như đòi nợ một cách kiên quyết bất kỳ người lái đò nào đi qua đây. Tác giả đã kết hợp cường điệu và nhân hóa.
Phần miêu tả những hút nước trên sông đã được Nguyễn Tuân tái hiện với cảm giác mạnh mẽ, đặc biệt dành cho kỹ xảo điện ảnh... Tất cả thể hiện sự quan sát và sáng tạo tuyệt vời. Ở đây, tác giả sử dụng biện pháp so sánh và thể nghiệm...
Phần miêu tả về “thác nước” và “thạch trận” sông Đà. Âm thanh dữ dội, vang vọng những tiếng réo gào. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã nghe thấy tiếng nước réo, gần lại vang lên tiếng to mãi”. Tiếng thác được ví như tiếng rống của “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Người đọc có thể cảm nhận được sự giận dữ, lồng lộn của con sông qua từ ngữ nóng bỏng, đầy màu sắc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.
Hình ảnh: “Sóng bọt trắng phủ kín cả một bên trời đã’ thể hiện sự mịt mùng của sóng nước. Đá: ngàn năm vẫn cứ kiên cường, khi con thuyền đến, chúng dậy sóng, vồ lấy thuyền, mặt hòn nào cũng đầy đau đớn, nhăn nhúm, méo mó đến ghê rợn; đá xếp thành “thạch trận”, sông Đà đã giao nhiệm vụ cho từng hòn đá với chức vụ đá tướng, đá quân, tạo ra những hàng rào mà sóng nước chỉ chờ thuyền sơ hở để đẩy vào cửa tử chết chóc... Nước: reo hò vang dậy, biến thành các viên đá để phá vỡ cán chèo vũ khí trên tay người lái đò, tấn công đến mức độ nguy hiểm. Khi đối mặt, sông tức giận như một cánh cửa đại dương đóm đóm rừng sà xuống và đốt cháy đầu sóng, làm cho mắt mờ đi. Ngay cả khi thua, mặt các hòn đá vẫn đáng sợ: mặt xanh lè vì thất vọng.
Tổng kết, thông qua việc nhân hoá, so sánh, tô điểm và sử dụng ngôn từ phong phú, tạo hình, gợi hình, kích thích tưởng tượng, táo bạo, khả năng kết hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực: nghệ thuật, võ thuật, quân sự, những đoạn văn có độ căng thẳng, độ dày, độ giãn đã giúp Nguyễn Tuân mô tả một cách ấn tượng về một con sông dữ tợn, độc ác, khiến người đọc có thể tưởng tượng được sông Đà như một sinh vật sống, một phần của thiên nhiên mà đôi khi như Nguyễn Tuân nói: nó trở thành “diện mạo và tâm trạng của kẻ thù số một” của con người Tây Bắc, gợi nhớ tới hình tượng thần sông, thần núi trong truyền thuyết:
Núi cao sông dài vẫn đọng mãi
Năm năm đòi nợ, đời đời kích ghen
Ở đây, người đọc vẫn cảm nhận được “dấu ấn Nguyễn” (tức phong cách riêng của Nguyễn Tuân) trong nhân vật của ông: có phần khinh bỉ tài tử. Điều này làm cho sức mạnh mênh mông, dữ dội của sóng, thác, nước Đà trở thành yếu tố làm nổi bật bản lĩnh cao quý của ông lái đò. Đó là điều kiện cần để nhân vật Nguyễn Tuân thể hiện sự thành thạo của mình. Thiên nhiên Tây Bắc tươi đẹp, kỳ thú, và những con người Tây Bắc thật sự là “vàng mười” của đất nước, chỉ có tài hoa như vậy mới “chinh phục” được con sông này, buộc nó phục vụ cho cuộc sống của họ.
........
Tải xuống tài liệu để xem thêm bài văn mẫu tuyệt vời nhất