1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
4. Bài mẫu số 4
5. Bài mẫu số 5
Đề bài: Đánh giá Bài hát thăng hoa của Nguyễn Công Trứ
Danh sách 5 bài văn mẫu Đánh giá Bài hát thăng hoa của Nguyễn Công Trứ
1. Đánh giá Bài hát thăng hoa của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 1:
Khi nói đến những nhà thơ nổi tiếng trong nửa đầu thế kỷ XIX, không thể bỏ qua Nguyễn Công Trứ - một quan thị lang tài năng của triều đình Nguyễn. Nhân vật này nổi tiếng với tinh thần làm việc tích cực, tôn trọng chí lớn, và lối sống độc đáo, luôn tìm kiếm tự do và không bị ràng buộc.
Nguyễn Công Trứ được coi là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất thời đại, góp phần quan trọng vào sự phát triển của thể thơ, với khả năng thể hiện những cảm xúc phong phú và tinh tế.
Trong số những tác phẩm thể hát nói của Nguyễn Công Trứ, một trong những bài thơ được nhắc đến nhiều nhất chính là Bài hát tận cùng. Đây là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả rời bỏ sự nghiệp quan trọng để về sống tại quê nhà, một giai đoạn mà tâm hồn kiêu hãnh và tình cảm nghệ sĩ của ông được thể hiện một cách đầy đủ. Dù là một nhân vật có cái tôi mạnh mẽ, giàu tình cảm, Nguyễn Công Trứ vẫn phải tuân thủ những quy định của triều đình khi còn ở trong vai trò quan trọng. Lịch sử chứng kiến rằng trong nhiều giai đoạn phong kiến, triều đại Nguyễn vẫn được coi là một triều đại với những quy định cực kỳ chặt chẽ, không hợp lý và thiếu nhân quyền.
Bằng Bài hát tận cùng, Nguyễn Công Trứ đã mô tả một cách sống động và độc đáo về bản thân, bao trùm bài thơ để độc giả có thể cảm nhận được lối sống khác biệt, đặc sắc của tác giả. Lối sống của ông đối lập hoàn toàn với những giáo lý chính thống của thời kỳ đó.
Đầu tiên, dưới tiêu đề của bài thơ đã thu hút sự chú ý và suy ngẫm của độc giả. Sự độc đáo của Nguyễn Công Trứ có lẽ được thể hiện ngay từ cách ông đặt tên cho bài thơ: Bài hát tận cùng. Theo cách hiểu thông thường, tận cùng chỉ là nơi cao nhất nhưng không vững, dễ sụp đổ. Ví dụ: Bình hoa để tận cùng. Hơn nữa, tận cùng còn có nghĩa là người đi thẳng, không ổn định, lúc tiến lên, lúc nghiêng về phải, lúc nghiêng về trái...Khi đọc kỹ bài thơ, chúng ta có thể nhận thấy tiêu đề này đóng góp quan trọng trong việc diễn đạt thái độ và tư thế của nhân vật trữ tình - tác giả sống giữa đám đông, sống ngoài lề, phản đối những quan điểm thông thường trong xã hội thời kỳ đó.
Những bài văn Đánh giá Bài hát thăng hoa của Nguyễn Công Trứ tốt nhất
Nguyễn Công Trứ thường nhấn mạnh về lòng chí nam nhi theo triết lý nho giáo. Trong tác phẩm Chí làm trai, ông khẳng định:
Chí làm trai nam, bắc, đông, tây
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể
Trong Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ cũng mở đầu bằng một câu ngôn ngữ Hán phát ngôn mạnh mẽ về lòng chí làm trai như đã nêu trước đó: mọi sự trong vũ trụ này đều là phận sự của chúng ta:
Vũ trụ nội tâm chấp nhận số phận
Nguyễn Công Trứ luôn giữ trong tâm trí suy nghĩ này. Không lạ khi ông thường nhắc đến nó trong nhiều tác phẩm suốt cuộc đời sáng tác. Vũ trụ là chỗ mà chúng ta phải chịu trách nhiệm (mọi sự trong vũ trụ là phận sự của chúng ta - Gánh trung hiếu), và đồng thời cũng là nơi mà chúng ta tạo ra định mệnh cho bản thân (Những việc trong vũ trụ là phận sự của ta - luận kẻ sĩ). Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ, nếu chúng ta được sinh ra làm những người tu mi, thì chúng ta phải tìm được danh vọng trong núi non, phải thực hiện những công việc lớn lao để được ghi vào sử sách. Điều đẹp của câu thơ mở đầu chính là triết lý sống đúng đắn và tình cảm chân thành của tác giả. Để xã hội phát triển, mỗi con người phải tự khẳng định bản thân, phải cố gắng hết mình để làm một công việc có ích cho đời sống và có thể tự hào trước mọi người. Khát vọng đó, quyết tâm đó là chính đáng, là đáng trân trọng; đặc biệt là khi nó được thể hiện một cách trực tiếp với thái độ chân thành của nhà thơ.
Sau đó, Nguyễn Công Trứ tự nhận danh tính và khẳng định tài năng của mình:
Người Hi Văn tài bộ đã bước vào lồng
Kể từ lâu, câu thơ này ít nhất đã được hiểu theo hai cách. Cách hiểu thứ nhất cho rằng: Hi Văn, một người tài năng, đã trở thành một phần của hệ thống quyền lực triều đình (như con chim yêu tự do, muốn bay trên bầu trời rộng lớn, giờ đây bị nhốt vào lồng), và do đó, ông không thể sống tự do như ông mong muốn. Cách hiểu thứ hai: Hi Văn là người tài năng, có thể sánh ngang với trời đất; lồng ở đây có thể hiểu là trời đất, là vũ trụ, trong quan niệm của người xưa thì đất có hình vuông và trời có hình tròn. Cách hiểu thứ hai có vẻ thuyết phục hơn, nhất quán hơn so với cách hiểu thứ nhất; đặc biệt là nếu đặt trong ngữ cảnh bao trùm bài thơ, cách hiểu này có văn cứ hơn. Tuy nhiên, hai dòng đầu thường chi phối toàn bộ bài thơ, và cảm hứng chủ đạo trong bài thơ này chính là sự kiêu hãnh, ngất ngưởng chứ không phải than phiền về việc mất tự do. Hi Văn là biệt danh của Nguyễn Công Trứ. Nói trực tiếp về bản thân, tự xưng bằng biệt danh là cách diễn đạt rất Nguyễn Công Trứ. Trước cụ Thượng Trứ, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng có lần tự nhận danh xưng:
Quả cầu nhỏ bé, lá trầu hương mảnh
Đây của Xuân Hương đã đánh mất rồi
(Mời trầu)
Và tác giả của truyện Kiều cũng đã tự nhận danh xưng trong một bài thơ than oan của Độc Tiểu Thanh kí:
Không biết ba trăm năm sau này
Thế gian này còn nhớ Tố Như không?
(Không biết ba trăm năm sau này
Thiên hạ ai đó sẽ khóc Tố Như)
Tuy nhiên, chưa có ai dám tự nhận danh xưng sau đó và đồng thời khẳng định mình có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Câu thơ này giống như nói về người khác, tự nhiên, chân thành.
Khi là thủ khoa, là Tham tán, là Tổng đốc Đông,
Cầm quân đánh chiến ngất ngưởng,
Ở bình Tây, lãnh đạo cờ đại tướng,
Có lúc trở về phủ doãn Thừa Thiên
Đoạn thơ trên phản ánh niềm tự hào về tài năng văn võ đồng thời thể hiện sự chân thành, hồn nhiên của tác giả. Nguyễn Công Trứ, mặc dù xuất thân quan văn, nhưng từng chỉ huy đánh giặc ở biên giới Bắc, Tây Nam và đàn áp cuộc nổi loạn của nông dân.
Sau bức tranh thơ đầu tiên đã phân tích, đây là yếu tố cực kỳ quan trọng tạo nên bức chân dung của tác giả, bộc lộ lối sống ngất ngưởng qua cách mô tả tự do, sáng tạo:
Cổng thành vang lên tiếng reo chiến sự.
Chim xanh trời gọi mời ngất ngưởng.
Núi xa phô bày vẻ trang trí mây trắng,
Bàn tay nắm kiếm, cung bắn tạo dáng từ bi.
Đôi dép tiên dẫn đường một đám đông,
Còn bụt cười rạng ngời trước tấm tượng ngất ngưởng.
Trong xã hội phong kiến, việc di chuyển bằng ngựa thể hiện sự quyền lực và giàu có. Tuy nhiên, ông Công Trứ lại độc đáo khi không sử dụng ngựa mà chọn chiếc xe bò cái lông vàng, rong chơi khắp nơi. Và trước chiếc xe, cụ để một bảng thơ ngắn như một bức tranh tĩnh lặng:
Bước xuống ngựa, lên xe, không vì danh lợi phàm trần
Mắc kẹt trong vòng quyền quý và địa vị cao cấp
Đồng lòng với chiếc xe bò cái mà an bình
Và mảnh ghép thơ che phủ khuôn mặt thế giới.
Thực sự, bản tính đối lập trong Nguyễn Công Trứ làm nổi bật tác giả, một tay ngất ngưởng: bò vàng dẫn đường, kiếm cung từ bi, chùa phật đi kèm với đôi dì... sự hài hước này khiến cho người hiền lành, thậm chí tháo bụt cũng không kìm được tiếng cười.
Vậy, tại sao Nguyễn Công Trứ, sống giữa thế gian huyên náo, vẫn yên bình, xa xôi, giữa những biến động của cuộc sống và đặc biệt, với địa vị cao quý trong triều đình? Có lẽ vì đơn giản, ẩn sau ý thức sâu xa, ông không quan trọng đến thành công hay thất bại trong cuộc sống. Kỷ niệm người ta, trong ba chục năm nghề quan, từ đại tướng đến lính biên phòng, mọi lúc ông đều như gió xuân, không để tâm hồn mình bị ảnh hưởng bởi lời khen chê của thế gian:
Dù bị mất chức vụ lớn, nhưng đôi mắt vẫn rạng ngời,
Dù bị người khác chê bai, vẫn giữ vẻ thanh cao.
Và nguyên nhân chủ yếu của thái độ sống này, của sự ngất ngưởng này chính là ý thức mạnh mẽ về cá nhân, về bản thân, cũng như lòng tự tin về tài năng và đạo đức của bản thân.
Cuối bài thơ, Nguyễn Công Trứ một lần nữa nhấn mạnh sức mạnh ngất ngưởng bằng câu hỏi: Ai trong triều đình có thể ngạo nghễ như ông? Câu hỏi là một phát ngôn, một lời khẳng định: Không có ai trên thế giới này có thể so sánh với thi sĩ Nguyễn Công Trứ về độc đáo, tinh thần tự do và sức mạnh sáng tạo.
Trong bối cảnh phong kiến, Bài ca ngất ngưởng mang đến nhiều ý nghĩa sâu sắc. Nó là một tín hiệu về sự tỉnh thức của ý thức cá nhân, cá thể trong bối cảnh cái tôi bị áp đặt. Bài thơ ghi chép một bước tiến quan trọng trong lịch sử dân tộc, đặt nền tảng cho sự phát triển của tư duy dân chủ.
Ngày nay, lối sống và tinh thần ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ vẫn đáng được mệnh danh. Tuy nhiên, Bài ca ngất ngưởng vẫn giữ giá trị của mình, thúc đẩy độc giả hãy sống mạnh mẽ, hãy sống có ý nghĩa để cuộc sống trở nên có giá trị, không chấp nhận sự sống thiếu ý nghĩa và tầm quan trọng.
2. Đánh giá về Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, phiên bản 2:
Nguyễn Công Trứ được biết đến với danh xưng nhà thơ ngất ngưởng của Việt Nam, sáng tạo phong cách độc đáo mang tính ngông ngạo, đặc biệt thể hiện rõ trong tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của ông, bài thơ Bài ca ngất ngưởng.
Trong tác phẩm, tác giả mô tả tâm trạng và phong cách cá nhân, sử dụng cách xưng hô đầy tính ngông ngạo. Không gian vũ trụ mở ra là một không gian rộng lớn và vô tận, nhưng đồng thời cũng không mang theo sứ mệnh hay trách nhiệm gì cả. Tác giả có vẻ phê phán những nam nhân trong xã hội, khởi đầu bằng việc thể hiện niềm tự hào về vai trò và trách nhiệm của bản thân đối với đất nước.
Vũ trụ nội mạc phi phận sự, ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Từ thủ khoa đến tham tán, từ tổng đốc Đông đến thao lược, tất cả đã trở thành tay ngất ngưởng của ông. Nguyễn Công Trứ thể hiện quan điểm ngông nghênh, phản ánh sự tự do của ông và tỏ ra phê phán sự bị ràng buộc khi làm quan. Ông không muốn sống trong môi trường đấu tranh, đặt ra sự tự do làm trọng tâm với bản tính kiêu hãnh.
Nhà thơ tỏ ra ngạo nghễ, khẳng định lòng tự do, phê phán cuộc sống quan lại. Ông không chấp nhận bị gò ép bởi vai trò quan lại và luôn khát khao cuộc sống tự do, không muốn bị bó buộc. Điều này được thể hiện rõ qua việc ông chọn xe bò cái lông vàng thay vì ngựa, biểu tượng cho sự tự do và độc lập.
Đánh giá Bài ca ngất ngưởng để hiểu rõ cái bản chất độc đáo của Nguyễn Công Trứ
Tất cả những gì ông thể hiện trong tác phẩm đều phản ánh tính cách của ông khi làm quan, không chỉ qua nghệ thuật mà còn trong vai trò quan lại. Liệt kê các chức vụ như thủ khoa, tham tán, tổng đốc, tác giả thể hiện sự ngất ngưởng không chỉ qua cuộc sống mà còn trong nhiều lĩnh vực khác. Ông luôn mang đến sự tích cực, suy ngẫm sâu sắc và ý nghĩa lớn. Ông thể hiện sự ngất ngưởng không chỉ thông qua địa vị mà còn là bản thân ông:
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Trong quá trình trở thành quan, ông không chỉ thể hiện sự ngất ngưỡng, mà còn truyền đạt thái độ này khi trở về quê. Từ bỏ cuộc sống quan lại, ông mong muốn sống tự do và tự tại. Sự ngất ngưỡng của ông không chỉ xuất phát từ con đường làm quan mà còn là sự tự do và tự tại trong cuộc sống, điều hiện hình rõ trong sự sáng tạo của ông:
Kìa núi kia, mây trắng phau phau,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Bước chân uyên bác như tiên tử,
Bụt cười vui vẻ ông ngất ngưởng.
Từ khi bỏ áo quan về ẩn cư, cuộc sống của ông trở nên gần gũi và bình dị. Ông sống hòa mình với thiên nhiên, bên cạnh núi non và mây trắng. Ông không để ý đến lời khen chê từ người khác, mà say mê trong những niềm vui giản dị như hát hò, rượu ngon. Cuộc sống an nhàn và hạnh phúc của ông là một biểu tượng của sự tự do và an nhàn.
Cuộc sống tuổi trẻ làm quan đã qua, ông không còn bận tâm. Ông đã trải qua mọi trách nhiệm với dân và nước. Những năm tháng tận hưởng cuộc sống vô lo là những kỷ niệm tốt đẹp nhất cho ông:
Nghĩa vua tôi, trách nhiệm đầy đủ,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Trong triều đình, ông nổi bật và duy nhất. Thái độ ngất ngưởng của ông là không giống ai. Ông sống trọn tình nghĩa và giờ đây, ông muốn hưởng một cuộc sống tự do và thoải mái nhất.
Tác phẩm mạnh mẽ thể hiện thái độ và phong cách riêng biệt của Nguyễn Công Trứ - người có tâm hồn ngất ngưởng.
3. Cảm nhận Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 3:
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), danh nhân văn hoá văn võ toàn tài, là nhà thơ tài năng của Việt Nam trong thế kỉ XIX.
Ông để lại hơn 60 bài hát nói và khoảng 50 bài thơ Nôm. 'Hàn nho phong vị phú bài thơ Đi thi tự vịnh', bài hát nói 'Bài ca ngất ngưởng'... là những tác phẩm tuyệt vời mà ông truyền lại cho thế hệ sau.
'Bài ca ngất ngưởng' là sáng tác của Nguyễn Công Trứ trong giai đoạn 10 năm cuối đời (1848 - 1859), khi ông quay về cố hương và trở thành trí sĩ. Bài thơ thể hiện phong cách sống tuyệt vời của ông, một thi nhân tài năng.
Ngất ngưởng: Không bám trụ ở những nơi nguy hiểm, dễ đổ, dễ rơi (The New Vietnamese Dictionary). Tại đây, nó là biểu tượng của một con người độc đáo, sống theo cách khác biệt và không để ý đến ý kiến của người khác.
Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập giữa sự vĩ đại của vũ trụ và cuộc sống chật chội, hạn hẹp. Nhưng Hi Văn - người tự hào và kiêu hãnh - vẫn tỏ ra tài năng, học giỏi, từng đoạt giải thủ khoa làm quan võ (Tham tán) và làm quan văn (Tổng đốc Đông). Ông ngất ngưởng, sống độc đáo, không để ý đến ý kiến của người khác. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2) tạo nên một không khí hào hùng:
'Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông,
Thao lược! Tay ngất ngưởng, hiện tại và vinh quang ngày nào.'
Khổ trung: Tác giả tự nhận mình là nhà quân lược xuất sắc, từng hỗ trợ quốc gia trong những thời kỳ khó khăn như 'bình Tây cờ đại tướng', đồng thời phục vụ vua như 'Phủ doãn Thừa Thiên'. Đã là quá khứ, nay trở thành trí sĩ, chúng ta sống ngất ngưởng bất kể người khác nghĩ gì:
'Đô môn giải tổ chi niên,
Đeo ngất ngưởng, bò vàng đạc ngựa.'
Cảm nhận về Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, văn mẫu tốt nhất
Bây giờ, sau khi trả lại áo mũ cho triều đình, ta quay về quê hương không còn cưỡi ngựa mà thay vào đó là con bò vàng; người bạn đồng hành của ta cũng đội chiếc đỉnh ngất ngưởng, tạo nên một phong cách độc đáo, rất khác biệt!
Khổ thứ nhất và thứ hai bày tỏ một lối sống ngất ngưởng. Ngày xưa, là một danh tướng kiêu hùng (tay kiếm cung), nhưng giờ đây trở nên rất từ bi và hiền lành. Dạo chơi qua chùa chiền, thưởng thức cảnh đẹp (Rú Nài): 'Kìa núi nọ phau phau mây trắng', ông đưa theo 'một đôi dì' (một vài nàng hầu). Và vì thế, 'Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng'. Bụt có thể cười, thế gian có thể cười, hay là ông Hi Văn tự cười mình? Vấn đề 'được, mất' chỉ là phần của số phận như câu chuyện 'thất mã tái ông', chẳng còn quan trọng! Những lời khen chê từ thiên hạ, hãy để nó bay xa như làn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua: 'khen chê phơi phới ngọn đông phong'.
Không quan tâm đến việc mất mát, phớt lờ những lời khen, chê thị phi, ông sống những ngày tháng nhẹ nhàng, vui vẻ. Ngất ngưởng mà vẫn giữ được sự trong sáng, cao quý. Cách chia nhịp 2/2, nghệ thuật sử dụng trắc đều, lối nhấn, sự tương phản trong diễn đạt đã tạo nên bức tranh thơ phong cách, biểu lộ một tâm hồn thoải mái, yêu cuộc sống, ham thưởng thức, không bị ràng buộc bởi bụi trần:
'Khi hát! khi uống! khi vui! khi hòa mình,
Không Phật! không Tiên! không gò bó tục tạp'
Trình bày theo kiểu khổ xếp, Nguyên Công Trứ tự hào khẳng định vị thế của mình như một danh thầy trung thành với triết lý 'vua tôi', ngang tài Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật - những tài năng lỗi lạc đời Hán, đời Tống ở Trung Quốc. Ông tỏ ra kiêu hãnh khi tự xếp mình vào lịch sử như sau:
'Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phủ,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!'.
So sánh hai khía cạnh xa lạ, bên ngoại và bên trong (Bắc sử và triều Nguyễn), tác giả kết thúc bài thơ bằng tiếng 'ông' vang lên, đầy hào hùng.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, cần phải có thực tài, danh vọng thực, phải theo đạo lý 'vua tôi' mới có thể trở thành một 'tay ngất ngưởng', 'ông ngất ngưởng'. Cách sống ngất ngưởng của ông phản ánh sự tài năng và tinh thần cao quý, không quá kiêu căng, cũng không bị ràng buộc bởi xã hội.
4. Nhận định về Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, mẫu số 4:
Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), quê ở làng Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, sinh ra trong gia đình truyền thống về đạo đức. Tài năng của ông được biết đến, nhưng ông chỉ đỗ đạt trong sự nghiệp khoa cử khi đã 42 tuổi. Sau đó, ông phục vụ trong triều đình Nguyễn, nhưng tính cách tự do và phóng khoáng khiến cho cuộc sống quan trường của ông trở nên khá gian nan. Nguyễn Công Trứ được biết đến là nhà nho yêu nước và ân nhân nhân dân. Ông để lại khoảng 50 bài thơ, hơn 60 bài hát nói, và một bài phú nổi tiếng với tên là Hàn nho phong vị phú. Các sáng tác của ông chủ yếu sử dụng chữ Nôm.
Bài ca ngất ngưởng, một tác phẩm hát nói, được sáng tác sau năm 1848, khi ông rời bỏ sự nghiệp quan trường và bắt đầu cuộc sống tự do. Bài thơ rõ ràng thể hiện thái độ sống của Nguyễn Công Trứ trong giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đau thương từ quan trường. Bài thơ thể hiện ý thức rõ về tài năng và nhân cách sống của một nhà nho có tài, có đạo đức.
Ngất ngưởng, một từ ngữ thường được hiểu là sự đứng ở mức độ cao, không ổn định. Trong bài thơ này, ngất ngưởng mang ý nghĩa của sự khác biệt, vượt lên trên bình thường, coi thường ý kiến cộng đồng. Ngoài tiêu đề, từ ngất ngưởng được nhắc lại 4 lần ở cuối mỗi khổ thơ, trở thành biểu tượng cho một lối sống, một thái độ sống vượt trội, một trò chơi đầy thách thức với xã hội, dựa trên sự nhận thức rõ về tài năng và nhân cách cá nhân.
Đánh giá Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Sau khi rời bỏ bức màn quan trường, Nguyễn Công Trứ thể hiện những hành động độc đáo, kỳ lạ đến mức độ ngất ngưởng. Thay vì cưỡi ngựa như mọi người, ông chọn cưỡi bò và thậm chí đeo đạc ngựa, khiến cho cả thượng lớn và tớ nhỏ đều phải ngạc nhiên. Dù thăm cảnh chùa, ông vẫn giữ kiếm cung bên mình và kèm theo 'một đôi dì'. Dù diện mạo từ bi, Nguyễn Công Trứ vẫn không quên mối nợ trần thế, luôn mang theo đám phụ nữ quyến rũ. Đó chính là sự phóng khoáng của một tâm hồn nhà văn, người có lòng tự do cao cao tận trời.
Không mặn mà với những lời khen chê hay những thất bại. Đó là triết lý sống, quan niệm mạnh mẽ về sự tự do và phóng khoáng, thoát ly khỏi vòng quay của danh vọng và lợi ích thường nhật. Ông coi sự mất mát như một phần của cuộc sống, rời bỏ mọi thế tục để sống tự do, hưởng thụ niềm vui trong mọi khía cạnh: từ cầm, kì, thi, tửu đến sự giao thiệp với giai nhân giữa thế gian hối hả.
Nhà thơ tận dụng nghệ thuật tương phản, đặt những yếu tố đối lập để thể hiện thái độ ngất ngưởng.
Nhân vật xuất hiện trong tác phẩm là một người mang đặc tính tự tin, đam mê cuộc sống tự do, không màng đến danh vọng. Tuy ngông ngạo và ngất ngưởng, nhưng ông vẫn nhớ rõ trách nhiệm với cuộc sống. 'Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung' là quan điểm mà ông luôn giữ vững. Dù sống phóng túng, ông vẫn cam kết với nghĩa vụ với đất nước. Sự sáng tạo của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua việc sử dụng nhiều khẩu ngữ, tạo nên bức tranh sinh động, hóm hỉnh cho thể hát nói.
Cá tính sáng tạo của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua việc ứng dụng nhiều khẩu ngữ trong bài thơ. Điều này làm cho bức tranh thêm phần gần gũi, sống động. Các từ ngữ như ông, tay, vào lồng, một đôi dì, nực cười, phường, kìa núi nọ phau phau mây trắng, nên dạng, chẳng... cũng... đều làm nổi bật tâm hồn tự do và sự tự tin của tác giả.
5. Đánh giá Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Bài thơ được sáng tác vào năm 1848, thời điểm Nguyễn Công Trứ nghỉ hưu và trở về quê hương, tận hưởng cuộc sống tự do, thoải mái.
Bài hát nói ngất ngưởng tuân theo thể hát nói trong ca trù, một trường phái âm nhạc truyền thống (gọi là hát ả đào khi do nữ hát). Hát nói xuất hiện cuối thế kỷ XVIII, làm phong phú thêm nguồn gốc của ca trù. Tác giả sử dụng hát nói như một biểu tượng văn chương.
Bức tranh mở đầu bằng câu chữ Hán thể hiện lý tưởng nho giáo, với niềm tin rằng mọi việc trong vũ trụ đều là phận sự của kẻ sĩ. Hi Văn, sau khi tự xưng là ông, bước vào thế giới quan trường, mà ông gọi là 'lồng', coi đó như một sự trói buộc, mất tự do. Điều này làm nổi bật tính cách độc đáo của Hi Văn, không giống ai trong xã hội thèm khao khát danh vọng. Tính cách này là nguồn gốc của sự ngất ngưởng trong tác phẩm.
Nguyễn Công Trứ, từng là thủ khoa, Tham tán quân vụ, Tổng đốc An Hải, Đại tướng bình Tây, Phủ doãn Thừa Thiên. Cuộc đời ông đầy thăng trầm, không giữ chức lâu dù có lúc ở vị trí cao, nhưng lại giáng chức nhanh chóng. Thăng trầm này góp phần tạo nên hình ảnh 'tay ngất ngưởng'. Lối sống của ông cũng phản ánh sự ngất ngưởng: từ khi về hưu, ông đeo đạc ngựa cho bò vàng, một hành động độc đáo và trái ngược với thói quen thông thường. Ông từng là tướng giỏi, nhưng nay lại chọn cuộc sống chùa chiền, đi kèm với cô đầu, là hình ảnh ngất ngưởng.
Đánh giá Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
Trong tư duy sống của Nguyễn Công Trứ, bản lĩnh vượt trội, vui vẻ giữa những thách thức là điều kiện dễ dàng như Tái ông mất ngựa. Nhận khen hay chê như gió qua tai, ông sống hết mình cho niềm vui cá nhân.
Ông là người đặc biệt: không Phật, không Tiên, không bị ràng buộc bởi tư tưởng phổ quát. Mặc dù vậy, trách nhiệm với nghĩa vua tôi và lòng đối nhân dân vẫn là tròn trách nhiệm của ông. Điều này thật khác biệt trong xã hội lúc đó và là nguồn tự hào xứng đáng.
Tư duy sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ đột phá so với quan niệm thông thường. Nó có thể coi là một triết lý mới tại thời điểm đó, thể hiện bản lĩnh của một người tài tử không chấp nhận con đường truyền thống.
Bài thơ tuân theo thể ca trù, với các đoạn thơ đa dạng về độ dài và ngắt nhịp, tạo nên bức tranh phong phú, tự do, phản ánh tâm hồn thoải mái và không gò ép của Trang Chu. Nội dung chẳng cần phải quan tâm đến mất mát, vì đời là trò chơi và không cần phải lo lắng.
""""---KẾT THÚC""""---
Ở phần trước, chúng ta đã có những Ý kiến về Bài ca hùng vĩ và sẽ tiếp tục với việc trả lời các câu hỏi từ sách giáo khoa, Soạn bài Bài ca hùng vĩ và kèm theo phần Phân tích Bài ca hùng vĩ để nâng cao hiểu biết về môn Ngữ Văn.