Dàn ý
I. Mở bài: giới thiệu tác giả Nguyễn Duy, tác phẩm Ánh trăng.
II. Thân bài: bình giảng bài thơ dựa vào những luận điểm gợi ý sau:
1. Vầng trăng trong quá khứ
- Hồi nhỏ sống với đồng, với sông, với bể -> Điệp từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên nhiên, với những kí ức tươi đẹp của tuổi thơ.
- “Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh,“vầng trăng thành tri kỉ” -> Nghệ thuật nhân hóa -> trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính – nhà thơ.
-> Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi “Rừng hoang sương muối” (Đồng chí), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…
- “Trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ” -> Vầng trăng trong quá khứ mới đẹp làm sao.
-> phép liên tưởng đầy tính nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn thiên như cây cỏ” -> cho ta thấy rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng.
- “không…quên…vầng trăng tình nghĩa” -> thể hiện tình cảm thắm thiết với vầng trăng.
=>Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành,cả trong hạnh phúc và gian lao.
=>Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng.
=>Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình.
2.Vầng trăng trong hiện tại
- Hoàn cảnh sống: đất nước hòa bình.
-> Hoàn cảnh sống thay đổi: xa rời cuộc sống giản dị của quá khứ, con người được sống sung túc trong “ánh điện cửa gương
- “Vầng trăng đi qua ngõ – như người dưng qua đường”:
+ Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó.
+ Biện pháp nhân hóa, so sánh-> “Vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn “đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ, chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết.
-> Rõ ràng, khi thay đổi hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm.Nói chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại.
- Con người gặp lại vầng trăng trong một tình huống bất ngờ:
+ Tình huống: mất điện, phòng tối om.
+ “Vội bật tung”: vội vàng, khẩntrương -> bắt gặp vầng trăng.
-> Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ -> Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bao kỉ niệm nghĩa tình.
3. Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả trước vầng trăng
- Từ “mặt” được dùng với nghĩa gốc và nghĩa chuyển – mặt trăng, mặt người – trăng và người cùng đối diện đàm tâm.
- Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”. Rưng rưng của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.
- Và trong phút giây nhân vật trữ tình nhìn thẳng vào trăng - biểu tượng đẹp đẽ của một thời xa vắng, nhìn thẳng vào tâm hồn của mình, bao kỉ niệm chợt ùa về chiếm trọn tâm tư. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là đồng là bể, như là sông là rừng”. Đồng, bể, sông, rừng,những hình ảnh gắn bó nơi khoảng trời kỉ niệm.
-> Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”, đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.
- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu.
- Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.
III. Kết bài: khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Mẫu số 1:
Nguyễn Duy, một trong những nhà thơ của thế hệ kháng chiến chống Mỹ, đã để lại dấu ấn với bài thơ Tre Việt Nam và Hơi ấm ổ rơm, được biết đến qua giải thưởng báo Văn Nghệ. Hiện nay, tác phẩm của Nguyễn Duy vẫn tiếp tục được đánh giá cao. Bài thơ Ánh trăng của ông là một trong những tác phẩm được yêu thích bởi sự chân thành, sâu sắc và cách sắp xếp từ mới lạ.
Hai khổ thơ đầu tiên đề cập đến những kỷ niệm đẹp:
Hồi nhỏ sống cùng với đồng
với sông và với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng trở thành tri kỉ.
Trăng đã gắn bó với tác giả từ thuở nhỏ. Trăng đã gắn liền với cánh đồng, dòng sông và biển cả. Dù ở đâu, đi đâu, trăng luôn ở bên. Nhưng chỉ khi ở trong rừng, nơi mà tác giả sống trên đường Trường Sơn xa quê nhà, vầng trăng mới trở thành “tri kỉ'. Trăng với tác giả là đồng minh không thể thiếu. Trăng chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, trăng đồng hành và chia sẻ khó khăn.
Tác giả tóm tắt vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình cảm yêu thương, quý trọng của mình đối với trăng:
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Trăng có vẻ đẹp đơn giản tuyệt vời, không cần trang sức, đẹp một cách tự nhiên, hồn nhiên. Trăng tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên nên trăng hòa mình vào thiên nhiên, hòa mình vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa' vì trăng đã chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, đồng cam cộng khổ, là bạn tri kỷ như tác giả đã nói ở trên.
Nhưng có những lúc tác giả thú nhận rằng anh đã quên đi cái “vầng trăng tình nghĩa' ấy:
Từ khi trở về thành phố
quen với ánh sáng điện, gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người xa lạ qua đường.
Trước đây, tác giả sống với sông, biển, rừng, nhưng bây giờ môi trường sống đã thay đổi. Tác giả quay về sống với thành phố. Cuộc sống cũng thay đổi theo, “quen với ánh sáng điện, gương'. “Ánh điện”, “gương' tượng trưng cho cuộc sống tiện nghi, đầy đủ... dần dần “cái vầng trăng tình nghĩa' ngày xưa bị tác giả quên đi, “vầng trăng' ở đây tượng trưng cho những tháng năm khó khăn. Đó là tình bạn, tình đồng chí được hình thành từ những năm tháng khó khăn ấy. “Trăng' bây giờ thành “người xa lạ'... Con người thường hay thay đổi như vậy. Bởi thế người ta vẫn thường nhắc nhau: “đắng cay nhớ đến lúc ngọt ngào'. Ở thành phố vì quen với “ánh điện, gương', quen với cuộc sống tiện nghi nên mọi người không còn chú ý đến “vầng trăng' từng là bạn tri kỷ một thời.
Phải đến khi toàn thành phố mất điện:
Đèn điện thình lình tắt
phòng tối om đinh
vội bật cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.
“Vầng trăng” xuất hiện đầy bất ngờ, khoảnh khắc ấy, phút giây ấy, tác giả choáng váng trước vẻ đẹp kỳ diệu của vầng trăng. Bao kỷ niệm xưa bỗng ùa về khiến tác giả “rưng rưng' nước mắt:
Ngửa mặt lên nhìn vầng trăng
có cái gì rưng rưng
như là đồng, là biển
như là sông, là rừng.
Nguyễn Duy gặp lại ánh trăng như gặp lại người bạn thân thiết từ thuở thơ ấu, như gặp lại người bạn từng đồng hành bên nhau trong những tháng năm khó khăn. Tác giả không kìm được cảm xúc mãnh liệt của mình. 'Vầng trăng” nhắc nhở tác giả không bao giờ quên những tháng năm khó khăn ấy, không bao giờ quên tình bạn, tình đồng chí đồng đội, những người đã từng chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, đồng lòng đồng dạng trong những tháng năm chiến đấu đầy gian khổ thử thách.
Khổ cuối bài thơ, Nguyễn Duy dẫn dắt người đọc cùng chìm đắm trong suy tư, trong chiêm nghiệm về “vầng trăng tình nghĩa” một thời:
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.
Trăng vẫn thủy chung dù có ai thay đổi, vô tình với trăng. Trăng bao dung và rộng lượng biết bao! Tấm lòng bao dung rộng lượng ấy “đủ cho ta giật mình' dù trăng không một lời trách cứ. Trăng tượng trưng cho phẩm chất cao quý của nhân dân, trăng tượng trưng cho vẻ đẹp bền vững của tình bạn, tình đồng đội trong những tháng năm “không thể nào quên'.
Ánh trăng của Nguyễn Duy gây nhiều cảm xúc cho nhiều thế hệ độc giả với cách diễn đạt bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ, mới lạ. Ánh trăng còn mang ý nghĩa triết lí về sự thủy chung khiến người đọc phải suy ngẫm, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, ý nghĩa hơn.
Nguyễn Hữu Quang