Mẫu số 1
Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam bắt đầu nổi lên một sự trưởng thành mới. Thi ca trong nước không còn bị ràng buộc bởi những quy ước cũ kỹ của Nho học về việc giữ cho nhà thơ không dám thể hiện tài năng một cách tự do. Trong giai đoạn này, mỗi nhà thơ mới lại xuất hiện trên đấu trường văn chương với một tư duy riêng, của riêng mình. Chính vì sự độc đáo này, các nhà thơ thời đại mới đã định nghĩa lại thơ một cách khác biệt. Nếu Xuân Diệu cho rằng
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
Thì Hàn Mặc Tử lại phát biểu: “Thi sĩ là kẻ chịu trách nhiệm với mọi nỗi đau của con người”. Câu hỏi được đặt ra là “nỗi đau của con người” đó là gì? Có thể là nỗi buồn về tình yêu như Nguyễn Bính nói? Hay là tư duy “dù bóng chiều hoàng hôn vẫn nhớ nhà” của Huy Cận? Ngoài những nỗi đau đó, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau của con người” đó một góc nhìn khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không chỉ giới hạn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cả thực tế của xã hội Trung Quốc do chính phủ Tưởng Giới Thạch đứng đầu vào thời điểm đó. Mặc dù “ngâm thơ không phải là sở thích của ta” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại không thể phớt lờ những điều đáng chú ý của xã hội đó như thế nào? Được tóm gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng cay độc một cách sâu sắc về một xã hội
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Với tư cách là một người tù dưới thời chế độ Tưởng Giới Thạch, không có gì đáng ngạc nhiên khi tác giả vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc nét như thế. Đọc qua bài thơ, bạn sẽ dễ dàng nhận ra một sự nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng là trong thơ ca không thể thiếu những nghịch lý. Thơ vẫn được phép có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể tránh khỏi khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Mặc dù là nghịch lý nhưng tất cả đều mang trong mình một nét đáng yêu của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Có nghĩa là mặc dù nghịch lý về vật chất nhưng vẫn hợp lý trong tâm khảm.
Nghịch lý mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng tương tự. Nghịch lý này giờ đây đã đi kèm với một chút sự phẫn nộ, tức giận. Làm sao có thể chấp nhận được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” nhưng “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu định nghĩa rằng “ban trưởng” là người quản lý nhà tù và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải phóng tù nhân. Tất cả họ dường như đều có một công việc chung là giáo dục tù nhân, cải thiện tù nhân. Nhưng thực tế không phải như vậy.
Trong nghịch lý chính đã được trình bày, đâu đó nhen nhóm những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong nhà tù lại có thói quen đánh bạc? Dù biết rằng trong xã hội bên Trung Quốc thời đó việc đánh bạc đã bị cấm. Nếu bạn đánh bạc thì không chỉ bạn mà cả gia đình bạn cũng bị ảnh hưởng; chỉ riêng bạn thôi, bạn phải vào tù. Đó là một sự thật và sự thật này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua lời xin lỗi, nuối tiếc của một kẻ tù đánh bạc:
“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quắt chốn này?”
Bài thơ trên đã mô tả một cách tinh tế về sự lạm quyền đến độ tàn nhẫn của chế độ lúc đó. “Con bạc” bị bắt vào tù là đáng rồi, đúng là thích đáng với hành động của hắn. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi chính người bắt hắn vì tội đánh bạc lại tự thú với hành vi đó. Vậy thì cả bắt tù và phạm tội đều là tội phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi phạm tội thì bạn cũng không tránh khỏi; vậy mà tại sao bạn lại bắt tôi? Quả đúng là vậy, quan chức đó không có lý do để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “phong tặng” cho hắn. Và rồi nghịch lý ở đây là nhà tù giờ đây đã trở thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cả nơi mà tù nhân mong muốn không phải đến lại được cấp phép đánh bạc. Ngay cả “con bạc ăn năn mãi”: Thà trước đây vào đây đánh bạc để tránh bị bắt tội. Chẳng buồn cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù của Tưởng Giới Thạch là như vậy!
Và sau đó, không chỉ có tội đánh bạc mà tác giả còn ghi lại:
“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.
Lại là sự tham nhũng. Đã quá nhiều những sự thối nát, hèn nhát của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, tù nhân luôn biết rằng họ sẽ bị tra tấn, bị đối xử như thú vật. Mặc dù nhận thức được điều này nhưng nếu như nhà tù được coi là nơi cải tạo tù nhân thì tại sao lại có hành vi tham nhũng? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã phản ánh lại sự trớ trêu, sự tàn nhẫn của thói quen này một cách rất chân thực:
“Mới đến nhà lao phải nộp tiền
Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên
Nếu anh không có tiền đem nộp
Mỗi bước anh đi một bước phiền”
Thì ra thói quen tham nhũng là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận cùng của vấn đề. “Cảnh trưởng” dường như có quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” để đem nộp. Ở nơi “tăm tối” đó, tác giả đã thấy, đã cảm nhận được về sự nghịch lý tàn nhẫn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm kiếm một sự hợp lý nào đó.
“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”
Có vẻ như “huyện trưởng” là một người quan tâm đến dân chúng, thương dân nên khi đã tối, mọi thứ như chìm trong giấc mơ thì ông lại “thiêu đèn” để làm việc. Điều này thật là đáng quý! Nhưng câu hỏi được đặt ra là nếu ông lo lắng cho dân, cho đất nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông lại có những hành vi như vậy. Có phải ông có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố ý để cho qua và “cho phép” cấp dưới có quyền làm như vậy? Vấn đề tiếp theo là liệu “huyện trưởng” đã được cấp dưới đóng góp? Đó là một câu hỏi lớn – một câu hỏi phải được chính chế độ trả lời. Một mặt khác, nếu loại bỏ những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đèn” để sử dụng ma túy. Không phải là một việc đưa ra một cách cường điệu mà ghép hết tội này với tội khác cho ông; nhưng dù là tìm kiếm lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là một nhiệm vụ khó khăn.
Chỉ cần đọc qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, độc giả có thể thấy đó như một đoạn phim mà tác giả đang cố gắng tái hiện một cách chân thực. Đoạn phim này tái hiện một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều rõ ràng là xã hội đó sẽ không bình yên. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như vậy mà tác giả lại kết luận rằng:
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Dường như là thờ ơ và vô cùng nghịch lý. Dù là như vậy nhưng tác giả đã truyền đạt một cách sâu sắc và châm biếm mạnh mẽ. Nhãn tự “thái bình” cùng với những nghịch lý, với những hợp lý mang “phong cách” của Tưởng Giới Thạch. Có lẽ “thái bình” được thể hiện thông qua sự thống nhất từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, bẩn thỉu. Lại cùng với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn diễn ra bình thường, không có gì lạ cả, thậm chí là bản chất của hệ thống cai trị ở đây. Chỉ cần như vậy, tác giả đã châm chọc và châm biếm về xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch một cách sâu sắc đến thế. Sâu sắc vì thi nhân đã nhìn thấu vào cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của hệ thống cai trị này.
Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đánh giá mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc kèm theo nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hoàn thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại hợp lý hết lời!
Bài mẫu số 2
Bài thất ngôn tứ tuyệt “Lai Tân' là bài thơ thứ 97 trong tổng số 133 bài thơ của tập “Nhật kí từ trong nhà tù' của Hồ Chí Minh. Bài thơ số 98 sau đó, có tựa đề “Đáo Liễu Châu', được viết ngày 9 tháng 12 năm 1942, với câu: “Mồng chín ta mới đặt chân đến Liễu Châu – Ngả lại đã trôi qua trăm ngày cơn ác mộng...'. Từ nhà tù Thiên Giang, Bác Hồ viết bài “Nhà tù Thiên Giang' vào ngày 1 tháng 12 năm 1942 (bài số 94), sau đó bị chuyển đến Lai Tân bằng tàu hỏa, trên đống than, Bác viết vui vẻ: “So với đi bộ, ngồi trên tàu này còn thoải mái hơn!'. Từ đó, ta biết bài thơ “Lai Tân' được Hồ Chí Minh sáng tác vào tuần đầu tiên của tháng 12 năm 1942. Do là “Nhật kí...” nên cần phải tìm hiểu kỹ lưỡng như thế!
“Lai Tân' là một bài thơ nhằm phê phán thực tế xấu xa, hư cấu của xã hội Trung Quốc thời đó hay chỉ là sự châm biếm vui vẻ của nhà thơ về những “người' trong đám quan chức ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy? Một câu hỏi rất thú vị được đặt ra.
Dưới đây là phiên bản dịch của Nam Trân:
'Quản trại trưởng chuyên đánh bạc,
Phó trưởng án kiếm ăn bằng mọi cách,
Cảnh sát trưởng đốt đèn làm việc,
Trời đất Lai Tân vẫn yên bình'.
Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Câu thơ đầu tiên đề cập đến tên Quản trại trưởng - một người quản giáo. Hắn không hung dữ, không nghiêm túc như những người chủ ngục khác, mà chỉ “mỗi ngày chơi bài' (chơi bài cả ngày). Hắn đã biến nhà tù thành một sòng bạc giữa xã hội thanh bình. Nhà tù không phải là nơi cải tạo tù nhân, không phải là nơi để thi hành pháp luật và công lý. Quản trại trưởng và tù nhân đều có cùng một địa vị: tất cả đều là con bạc, đều tham gia cờ bạc, đang tìm kiếm tiền bạc, cùng chìm đắm trong cờ bạc. Câu thơ bằng tiếng Trung nghĩa là: “Quản trại trưởng nhà giam mỗi ngày chơi bài' được dịch sang “Quản trại trưởng chuyên đánh bạc', điều này cũng thú vị, ở đây có một tiếng cười vì sự nghịch lý của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ miêu tả, nhà thơ nhìn thấy, tiếng cười nhẹ nhàng, sâu sắc và thông thái.
Bởi vì trải qua “hơn trăm ngày ác mộng', bị chuyển từ nhà giam này sang nhà giam khác ở Quảng Tây, Người đã chứng kiến nhiều nghịch lý, tình cảnh khó khăn của bức tranh nhà tù, “sự bất hạnh của cuộc sống':
'Chơi bài ở ngoài bị bắt và phạt,
Trong nhà tù lại được chơi công khai,
Vào tù, con bạc cảm thấy hối hận mãi mãi:
Sao trước đó không vào đây!?'.
( Chơi bài)
Mỗi bức tranh là một tiếng cười nhẹ nhàng, châm biếm nhưng sâu sắc, bài thơ “chơi bài' giúp ta cảm thấy và hiểu sâu hơn, thú vị hơn về bức chân dung “Quản trại trưởng nhà giam mỗi ngày chơi bài'.
Câu thơ thứ hai, tác giả dường như nhìn thấy một cảnh sát trưởng trên đường:
“Phó trưởng án giải tội phạm tiền'.
Nam Trân dịch: “Giải người, Phó trưởng án kiếm sống bằng mọi cách'.
Nguyên văn: Phó trưởng án tham lam kiếm tiền từ việc giải thoát tội phạm.
Câu thứ nhất tương xứng với câu thứ hai, mỗi bức chân dung châm biếm có một nét riêng. Quản trại trưởng thì thích chơi bài. Phó trưởng án thì trắng trợn “làm ăn' từ việc lừa đảo tội phạm. Trong bối cảnh các quan ngại về vấn đề nhà giam, cảnh sát trưởng kiếm tiền từ việc lừa đảo tội phạm trở thành một thói quen mà nhà thơ thường xuyên trở thành “nạn nhân'. “Mới đặt chân vào nhà giam đã phải đóng tiền - Thường ít nhất năm mươi xu' (“Tiền vào nhà giam'), “Vào nhà giam phải đóng tiền cho đèn - Tiền Quảng Tây đúng sáu xu' (“Tiền đèn').
Phương diện không gian xã hội trong bài thơ “Lai Tân' được mở rộng trong bức chân dung thứ ba:
“Huyện trưởng thiêu đèn làm việc công'.
“Thiêu đèn' là đốt đèn, “làm việc công' là làm công việc. Câu thơ dịch đã thay đổi thứ tự từ “làm việc công' thành “làm việc'. Trong những năm 60, nhiều bài viết về “Nhật kí từ trong nhà tù' đều cho rằng huyện trưởng này đốt đèn suốt đêm để hút thuốc phiện, nhấn mạnh về việc phê phán thực tế xấu xa, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sự thật không phải như vậy, chính Hồ Chủ tịch đã xóa bỏ ba chữ “hút thuốc phiện' trong bức thư của nhóm dịch giả gửi Người.
Trong xã hội cũ, các quan lại tự coi mình là “phụ huynh' của dân, là “ánh sáng soi đường'. Trong câu thơ tiếng Trung có một từ “đèn' rất đặc biệt:
“Huyện trưởng đốt đèn làm việc công'.
Không phải là ngọn đèn công lý soi sáng trên trán Huyện trưởng, một quan to mặt lớn rạng ngời và vĩ đại? Ông ta có vẻ “đặc biệt nhất', lo công việc quan suốt ngày không đủ, đêm đêm còn đốt đèn làm việc công? Nhưng thực tế không phải như vậy, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Chuyện chơi bài của quản trại trưởng, chuyện kiếm tiền từ tội phạm của phó trưởng án nếu ra ngoài làm việc công, thì ông ta không biết, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hoặc có lẽ ông huyện trưởng Lai Tân là “cái áo' che bọn cấp dưới làm bậy “kiếm sống bằng mọi cách'!. Ba bức chân dung châm biếm cùng xuất hiện, kết hợp liền mạch, mang lại một giá trị thẩm mỹ đặc sắc, cho thấy một hệ thống quan lại Lai Tân là như thế! Cơ cấu quan liêu của chính quyền Quảng Tây thời ấy là như vậy!
Trước những “mặt mày' đó, thái độ của nhà thơ như thế nào?
Cuối bài thơ, Người viết:
“Lai Tân vẫn thái bình như xưa'
Câu thơ truyền đạt một nụ cười châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Nhà thơ hỏi một cách bất mãn: Lai Tân với hệ thống quan lại và chính quyền như vậy, mà vẫn “thái bình như xưa'. Cách mỉa mai, châm biếm của tác giả “'Nhật kí từ trong nhà tù” là như vậy! Tính “hướng nội' của “Nhật kí trong nhà tù” được thể hiện rõ về mặt đặc điểm thể loại, nó không chỉ là nhật kí mà còn là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho chính mình, để suy ngẫm, để chiêm nghiệm, “Cứ ngẫm suy rồi đợi đến ngày tự do'. Vì thế, bài thơ “Lai Tân' dù đề cập ba chân dung về Quản trại trưởng, Phó trưởng án, Huyện trưởng đại diện cho cái xấu, đồi bại của các quan liêu chính quyền Tưởng Giới Thạch thời ấy, nhưng chỉ để châm biếm, mỉa mai cái nghịch lý, cái hoàn cảnh mà nhà thơ đã và đang phải đối mặt và chấp nhận.
Đọc “Nhật kí từ trong nhà tù', ta gặp một số “quan chức' nhân hậu, đáng yêu. Sở trưởng Long An họ Lưu “mọi người đều nói ông công bằng'. Tiên sinh họ Quách “đối đãi với ta rất tốt'. Trưởng ban họ Mạc “không dùng uy quyền, chỉ dùng lòng tốt'. Khoa viên họ Trần thì “dịu dàng', Chủ nhiệm họ Hầu thì “trí minh'... Cách nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, công bằng và trọng thị, giữa cái xấu vẫn có điều tốt đẹp, tình người được trân trọng. Nhờ những con người này, tấm lòng này, mà ta hiểu rõ hơn cảm hứng chủ đạo của bài thơ “Lai Tân': một nụ cười châm biếm lan tỏa. Sau ba bức chân dung châm biếm là một nhận xét sâu sắc, châm biếm. Nụ cười châm biếm trong bài thơ “Lai Tân” là nụ cười của một cá nhân văn hóa lớn: trí tuệ và đạo đức cao đẹp.
Trong bài “Một tiếng nói hướng nội: Thế giới nhà tù và con người kiên nghị - trữ tình của tác giả ”, Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Huệ Chi đã viết:
“Đôi khi điều đối lập đã vượt ra ngoài bức tranh một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã hội Trung Quốc thời kì đó (mà thực ra cũng không chỉ riêng cho Trung Quốc và cho thời kì đó): quan lãnh đạo lười biếng, không có trách nhiệm, cấp dưới chỉ quan tâm đến việc kiếm sống, cho dù bất kỳ tệ nạn nào cũng được phép tự do phát triển:
“Quản trại trưởng mỗi ngày chơi bài',
“Phó trưởng án kiếm sống bằng mọi cách',
“Huyện trưởng đốt đèn làm việc'.
Tất cả những việc kì cục này được bày tỏ mục đích là gì? Có thể không phải là một sự “chia rẽ' tiếp tục trong quan điểm của nhà thơ: ngay cả khi đã phải “tiếp xúc' với hiện thực như một sự tồn tại không thể chối bỏ, ông vẫn tiếp tục tìm kiếm ý nghĩa của cái thực và cái giả ở mỗi khía cạnh khác nhau và trong các hình thức tồn tại khác nhau mà nó tồn tại, có khi kết luận là một nụ cười buồn...'.
Bài mẫu 3
Một phần nội dung của tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là ghi lại những điều tác giả nhìn thấy và nghe thấy hàng ngày trong nhà tù và trên đường di chuyển, tạo ra nhiều bài thơ có tính chất hướng ngoại và yếu tố tự sự. Tác phẩm tái hiện chân dung tinh tế của nhà tù Quốc dân đảng Trung Quốc, với sự phê phán mạnh mẽ như một bộ phim tài liệu. Tập thơ cũng phản ánh một phần của tình hình xã hội Trung Quốc trong những năm 40 của thế kỷ XX. Bài thơ Lai Tân là một trong những bài thơ trong tập thơ có nội dung hiện thực như vậy.
Lai Tân là nơi Hồ Chí Minh trải qua trên hành trình từ Thiên Giang đến Liễu Châu, thuộc tỉnh Quảng Tây. Bài thơ mang tên địa danh này là bài thơ thứ 97 trong số 134 bài thơ của tập Nhật ký trong tù, nó phản ánh hiện trạng u ám, thối nát của một xã hội được cho là yên bình, tốt lành.
Bài thơ được viết trong giai đoạn Trung Quốc bị phát xít Nhật xâm lược, nhân dân Trung Quốc phải chịu đựng dưới sự cai trị của ngoại bang và sự thâm hỏa của các quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch. Ba câu đầu trong bài thơ ghi lại hiện thực trong nhà tù. Đó là công việc hàng ngày của ba quan chức tiêu biểu cho bộ máy chính quyền tại Lai Tân. Ban trưởng nhà giam thường chơi bài, Cảnh trưởng thường nhận hối lộ, Huyện trưởng siêng năng đến mức phải thức đêm để hút thuốc phiện. Đọc câu thơ, người ta có cảm giác như Huyện trưởng siêng năng đang làm việc vào ban đêm, nhưng khi đặt công việc vào bối cảnh chung của Ban trưởng và Cảnh trưởng, rõ ràng Huyện trưởng đang thực hiện công việc bất thường. Cảnh tượng hoàn toàn không bình thường đối với một bộ máy quan lại của chính quyền nghiêm chỉnh. Câu kết bài thơ lại tạo ra một nghịch lý: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Câu thơ không có gì là bất thường cả, guồng máy cai trị ở Lai Tân từ lâu đã phân công việc một cách rõ ràng: Ban trưởng chơi bài, Cảnh trưởng nhận hối lộ, Huyện trưởng hút thuốc phiện. Cả bộ máy hoạt động một cách ổn định, thái bình. Sự thối nát của bộ máy chính quyền đã rất nghiêm trọng, cái xấu, cái không kỷ luật đã trở thành phổ biến, thậm chí trở thành một phần của cuộc sống hàng ngày. Và đó chính là thái bình trong cuộc sống của các quan lại Lai Tân. Bộ mặt của các quan lại nhà tù Lai Tân được Hồ Chí Minh mô tả rõ ràng, đầy đủ với chỉ bốn câu thơ. Không chỉ vậy, bài thơ còn phê phán tình trạng thối nát phổ biến của các quan lại và xã hội Trung Quốc dưới sự cai trị của Quốc dân đảng.
Nghệ thuật châm biếm của bài thơ được tạo ra từ hai yếu tố cơ bản là mâu thuẫn và giọng điệu. Một trong những cách để tạo ra tiếng cười trong nghệ thuật trào phúng là khai thác mâu thuẫn trái tự nhiên. ở đây, mâu thuẫn được xây dựng bởi cấu trúc bài thơ. Ba câu đầu liệt kê những việc không bình thường theo lẽ thường. Lẽ ra, với những gì được trình bày trong ba câu trên, tác giả phải kết luận bằng một câu thơ phơi bày thực trạng xã hội, nhưng ngược lại, tác giả lại kết luận Trời đất Lai Tân vẫn thái bình, cái bất thường bỗng trở thành cái bình thường. Đó là tiếng cười được tạo ra một cách châm chọc.
Để tiếng cười trở nên mạnh mẽ, sâu sắc và độc đáo, tác giả đã đưa ra ba hình tượng (Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng) liên kết với ba hiện tượng (chơi bài, nhận hối lộ, hút thuốc phiện) và không dừng lại ở đó, Hồ Chí Minh còn nâng cao cấp độ của sự việc lên tầm phổ quát và phổ biến bằng cách sử dụng các từ lặp như hàng ngày, đêm đêm, như cũ... Những hiện tượng này đủ để kết luận xã hội Lai Tân đang trong tình trạng hỗn loạn. Nhưng bất ngờ, tác giả lại kết luận rằng đó là thái bình. Hóa ra, hỗn loạn hay thái bình không phụ thuộc vào hiện thực khách quan theo logic tự nhiên nữa mà phụ thuộc vào cách nhìn hiện thực khách quan đó. Nếu nhìn từ góc độ khác, đó có thể là hỗn loạn nhưng với bộ máy quan lại Lai Tân thì đó là thái bình. Người đọc luôn cười, nhưng lại là một loại cười chua chát vì sự thật bị biến tấu một cách trần trụi, cuộc sống hàng ngày đã bị xúc phạm không thương tiếc.
Giọng điệu thơ chính là giọng điệu của tâm hồn nhà thơ, nhà thơ không bao giờ tạo ra tiếng cười dễ dàng. Hồ Chí Minh chắc chắn đã rất bất bình khi chứng kiến những cảnh tượng như vậy. Vậy tại sao tác giả không sử dụng một giọng điệu mạnh mẽ, phẫn nộ mà lại chọn một cách bình thản, nhẹ nhàng? Với phong cách hiện thực, đặc biệt là hiện thực trào phúng, tác giả đã giữ nguyên thái độ khách quan để tạo ra phản ánh lớn nhất. Sự bình thản của Hồ Chí Minh tạo ra cảm giác rằng Người không phê phán hay trào phúng gì cả. Tuy nhiên, với giọng điệu đó, tác giả đã tạo ra sự phản đối mạnh mẽ, quyết liệt. Đó là đặc điểm độc đáo của phong cách viết của Hồ Chí Minh trong bài thơ này.
Bài mẫu 4
Nhật ký trong tù (1942 - 1943) là một tập thơ đầy tính chiến đấu, sắc nét, và đậm đà tinh thần trữ tình của nhà thơ lớn Hồ Chí Minh. Tập thơ này có hình thức của một nhật ký, mang đậm tính đa dạng trong cách sử dụng ngôn từ, và giọng điệu, với bút pháp tự sự trào phúng chủ yếu được sử dụng để châm biếm, lên án nhà tù và chế độ xã hội Dân Quốc Trung Hoa. Bài thơ Lai Tân sử dụng bút pháp tự sự trào phúng với sự giàu tính trí tuệ.
Các dòng thơ đầu tiên miêu tả các nhân vật:
Ban trưởng nhà lao chuyên chơi bài
Cảnh sát, cảnh trưởng kiếm ăn lạm dụng quyền lực
Huyện trưởng thường làm việc đến đêm tối
Tác giả không chỉ ra tên của họ mà thay vào đó chỉ liệt kê từng người một, gắn với vai trò xã hội quan trọng trong máy công quyền, họ phải đóng vai trò mẫu mực trong việc thực thi pháp luật.
Cách mà tác giả kể chuyện và điểm tên các việc làm của họ là một cách rành mạch, có vẻ như mỗi người đều tự chăm chỉ theo đuổi. Nhưng họ đã làm gì đấy.
Ban trưởng nhà lao chơi bài. Chơi bài là một hành động bất hợp pháp, nếu chơi bài ở bên ngoài, họ sẽ bị bắt nhưng ở trong tù, việc chơi bài lại được công khai nên người giữ tù nhân thường chơi nhiều hơn cả tù nhân. Các quan giữ nhà tù đã không tôn trọng pháp luật.
Cảnh sát thường bắt người vô tội để họ có cơ hội chạy trốn, để hỏi thăm, để xin xỏ. Những kẻ này rất ranh ma, luôn tìm cách lợi dụng tình hình để nhận hối lộ. Khi họ chuyển sang làm việc trong nhà lao, họ cũng tìm mọi cách để lợi dụng tù nhân. Hành động của họ thực sự là bẩn thỉu, không đáng trách nhiệm.
Huyện trưởng thường làm việc đến tận đêm tối. Chúng ta không biết ông ấy làm việc gì. Ông ấy có hút thuốc phiện không? Rất khủng khiếp! Ông ấy có viết công văn không? Ông ấy làm việc chăm chỉ nhưng không biết rằng ông ấy bị dân chúng thao túng, gây rối, và làm phức tạp tình hình dân chúng. Ông ấy chỉ là một viên quan làm theo hướng dẫn, người không đủ tài năng nên dễ bị người dưới quyền lừa gạt. Sự vô trách nhiệm và không tài năng như vậy làm chúng ta bức xúc. Hoặc có thể ông ấy biết nhưng làm ngơ, có mắt nhưng không thấy. Điều này làm cho bọn quan tham nhũng và thối nát. Ý thơ mở ra nhiều lớp nghĩa khác nhau.
Việc liệt kê từng quan chức từ nhỏ đến lớn và sự thăng tiến cho thấy phạm vi của hiện thực mở rộng theo từng bậc thang, với các chức vụ cao càng thể hiện sự bất lương. Việc kể chuyện cho thấy công việc của họ diễn ra một cách trôi chảy, tự nhiên, và bức tranh sinh động như một vở kịch câm. Công việc của họ trở nên quen thuộc đến mức gần như tự động. Bộ máy cai trị vẫn hoạt động đều đặn, cuộc sống vẫn diễn ra bình thường. Trong luật sinh học, điều bất thường nếu trở nên phổ biến sẽ trở thành điều bình thường. Ở Lai Tân, sự thối nát đã trở thành điều phổ biến, là một phần của cuộc sống hàng ngày, và họ biết cách che đậy nên cuộc sống vẫn diễn ra bình yên. Điều đó làm cho chúng ta sợ hãi nhất. Tiếng cười châm biếm sâu sắc là ở đó.
Hai câu thơ đầu tiên của tác giả nêu rõ sự thối nát của ban trưởng nhà lao, cảnh sát trưởng. Câu thứ ba lại để lửng một chút, tạo ra sự mỉa mai và trào phúng.
Câu thơ cuối cùng là một nhận xét, một đánh giá về những gì đã được kể. Theo dòng tự sự, câu thơ này có vẻ như phê phán nhưng tác giả lại kết luận ngược
Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình
(Lai Tân vẫn yên bình như xưa)
Với sự thối nát như vậy, làm sao có thể nói đến 'thái bình'. Đang trong lúc hỗn loạn đấy chứ. 'Yên bình như xưa' đối với 'Lai Tân'. Mặc dù Lai Tân vẫn giữ nguyên trạng thái bình yên của mình. Nói rằng cái thối nát trở thành điều bình thường. Tiếng cười trào phúng, mỉa mai châm biếm toát lên từ cách diễn đạt ngược và việc sử dụng ngôn từ một cách khéo léo.
Hoặc đây có thể là nhận định phản biện của chính họ. Mặc dù có những vấn đề tiêu cực, cuộc sống vẫn tiếp tục bình yên, và quốc gia vẫn được xem là 'thái bình, thịnh trị'. Nhận định giả mạo này là một tội lỗi lớn. Bề ngoài có vẻ bình yên nhưng bên trong lại là sự rỗng tuếch. Lai Tân đang trên bờ vực của sự sụp đổ.
Bài thơ được viết ra trong bối cảnh thế giới đang chao đảo vì chiến tranh. Trung Hoa cũng đang chịu đựng những đợt tấn công của bọn phát xít.
Trong khi: các anh hùng đang đấu tranh trên mặt trận
Toàn cầu đang bốc lửa, bùng cháy như lửa xanh.
Trong khi đó, ở góc nhỏ này, bọn chúng vẫn ngồi yên, không hoạt động, chỉ đang đào sâu vào trong xã hội. Ở bất kỳ nơi nào có chiến tranh, họ vẫn bình yên. Chúng là những kẻ xâm lược bên trong. Lai Tân đang ở trong tình trạng đại loạn.
Một lời nhận xét như vậy đã phơi bày ra sự giả dối, và tỏ ra rõ những vấn đề của xã hội thời Tưởng. Hiện thực này là một sự tự thú.
Bài thơ thể hiện một nội dung chiến đấu sắc sảo, sâu sắc. Dù lời thơ đơn giản, nhưng bút pháp của tác giả trong việc sử dụng trào phúng là một bậc thầy. Nghệ thuật châm biếm nhẹ nhàng nhưng đầy cay đắng.