Văn bản số 1
Nguyễn Huệ, người anh hùng mưu lược đã chiếm thành Phú Xuân và đánh bại 3 vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm - Xoài Mút trong một trận thuỷ chiến khó khăn. Ông là người đã đánh đổ chế độ của nhà Trịnh và kết hôn với công chúa Ngọc Hân, tạo nên sự chấn động ở Bắc Hà. Nguyễn Huệ - vua Quang Trung đã đánh bại 29 vạn quân Thanh, để lại dấu ấn lịch sử bất tử ở gò Đống Đa.
Đọc văn bản “Quang Trung đại phá quân Thanh”, hình ảnh của người anh hùng Nguyễn Huệ đã ghi lại trong tâm trí chúng ta nhiều ấn tượng không thể phai nhạt.
Các tác giả từ dòng họ “Ngô Thị' ở Tả Thanh Oai đã dùng lời nói của một người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với Thái hậu, một cách khách quan, để giới thiệu về Nguyễn Huệ với sự tôn trọng và sợ hãi. Dù là kẻ đối địch, nhưng từ đại từ “hắn' mà người cung nhân này dùng để ám chỉ Nguyễn Huệ cũng không làm mờ đi sự vĩ đại của người anh hùng này.
“Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem ông ra bắc vào nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể đoán được. Ông bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không ai dám nhìn thẳng vào mắt ông. Khi ông chỉ tay, đưa mắt là ai nấy đã trở nên bối rối, sợ ông hơn cả sấm sét'.
Ở thời điểm đó, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã bao vây Thăng Long, xem nước ta chỉ là một phần của lãnh thổ của họ, Lê Chiêu Thống đã được nhà Thanh phong làm vua của An Nam, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự thất bại tất yếu của bọn xâm lược và kẻ bán nước: “E rằng chẳng lâu nữa, ông sẽ xuất hiện lại, tổng đốc Tôn sẽ đem quân từ nhà kia để chống lại, nhưng đối thủ của họ sẽ ra sao?' Chiến thắng ở Ngọc Hồi - Đống Đa vào năm 1789 đã chứng minh lời nói đó là một dự báo thông thái, một sự thật lịch sử vô cùng hùng mạnh.
Nguyễn Huệ là một người biết nhìn xa và quyết đoán. Vào ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), khi nhận được tin báo từ Nguyễn Văn Tuyết, ông “rất tức giận” và muốn “dẫn quân đi ngay”, nhưng sau lời nhắc nhở “hãy tạm gác lời chính quyền”, ông đã lắng nghe để “giữ lòng của người dân” và sau đó mới tiến quân đánh bại kẻ thù ở phía bắc. Hành động của ông ở núi Bân, tế Trời Đất, tôn thờ thần Sông, thần Núi, lên ngôi hoàng đế với tên là Quang Trung cho thấy tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi đất nước đứng trước nguy cơ xâm lăng.
Cứu nước như cứu lửa. Vào ngày 25, khi vẫn ở Thuận Hóa, ông đã hành quân đến Nghệ An: gặp Nguyễn Thiếp, ông đã chiêu mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức một lễ duyệt binh lớn và phát điều hành đánh giặc để kích thích tinh thần của tướng sĩ và ba quân “đồng lòng hiệp sức, để xây dựng một chiến thắng lớn', rồi nhấn mạnh rằng những kẻ “ăn hai lòng... sẽ bị giết ngay tức khắc' (vạch trần tình trạng tàn bạo và tham nhũng của người phương Bắc để kích thích tình yêu nước, kêu gọi các tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ... để loại bỏ kẻ xâm lược khỏi biên giới, hãy ...).
Chỉ trong hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã dẫn quân tới Tam Điệp để hội sự với quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông đã ra lệnh cho tướng sĩ ăn Tết sớm, hứa hẹn vào ngày mùng 7 sẽ có một buổi tiệc ăn mừng, sau đó chia quân thành 5 đạo lớn để “tiếng trống reo lên, tiến ra phía bắc'.
Nguyễn Huệ thật là một người “lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân'. Ông đã sử dụng yếu tố bất ngờ để đánh bại kẻ thù: bắt sống toàn bộ quân thám từ sông Thanh Quyết và trạm Hà Hồi, bao vây và tiêu diệt trạm Ngọc Hồi, khiến hàng vạn quân thù bị giết “đầy sông, máu chảy thành sông. Tại đầm Mực ở làng Quỳnh Đô, quân Thanh bị vây hãm, “quân Tây Sơn chạy đuổi như gió, giết hàng vạn kẻ'. Trong khi đó, một trận “rồng lửa' đã diễn ra dữ dội ở Khương Thượng, xác quân địch chất đống thành 12 đống cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như một cơn bão, khiến Tôn Sĩ Nghị “sợ đến mất trí, ngựa không kịp lên yên, người không kịp mặc áo giáp... chạy hướng bắc' Trưa ngày mùng 5, Nguyễn Huệ và quân đội đã tiến vào Thăng Long trước kế hoạch 2 ngày.
Chiến thắng ở Đống Đa vào năm Kỷ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng rất kiêu hãnh của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô song của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ xâm lược ngoại bang của dân tộc ta. Nó đã tạo ra một tượng đài hùng vĩ, lịch sử cho người anh hùng áo vải - vua Quang Trung để dân tộc ta mãi mãi tự hào và ngưỡng mộ:
“Giờ này áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước công cùng.'
(“Ai tư vấn' - Công chúa Ngọc Hân)
Xây dựng và mô tả hình ảnh người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công xuất sắc! Nó làm cho bài văn “Hoàng Lê nhất thống chí” tràn đầy chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Đại Việt.
Bài mẫu 2
Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam, với chiến công lẫy lừng đã đánh tan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược, làm cho kẻ bán nước không dám ngẩng đầu. Trong tác phẩm “Quang Trung đại phá quân Thanh” của nhóm Ngô gia văn phái, chúng ta được tái hiện đầy đủ hình ảnh vĩ đại của Nguyễn Huệ. Đọc lại, chúng ta ngưỡng mộ tài năng phi thường của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn.
Mô tả về Nguyễn Huệ, trước hết qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà Hoàng Thái hậu. Mặc dù gọi Nguyễn Huệ là “giặc', nhưng người cung nhân ấy không che giấu sự thán phục trước tài năng của Nguyễn Huệ. Dòng lời của cung nhân: “Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...'. Từ những lời này, ta thấy rõ tài năng vĩ đại của Nguyễn Huệ.
Ngay cả nhóm Ngô gia văn phái, thường theo “chính thống”, trước sự vượt trội của Nguyễn Huệ vẫn phải khen ngợi ông một cách trung thực. Mô tả cuộc hành quân thần tốc, tác giả cho thấy tài năng quân sự của Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ tỏ ra biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Điều này chứng tỏ ông không chỉ là một nhà quân sự xuất sắc mà còn là một nhà lãnh đạo có tâm hồn cao cả. Hành quân vào Thăng Long vào dịp Tết Nguyên đán cũng là minh chứng cho tài năng của ông trong việc sử dụng chiến lược.
Nguyễn Huệ không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Lời dụ của ông khích lệ lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung, ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân.
Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong “Quang Trung đại phá quân Thanh” của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài mà còn là một vị tướng giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.